Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
phần
3
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Vân
và Huệ Trang
Tập 05
“Thử nhất cú Phật hiệu,
chánh như Yếu Giải sở thị, tức thị
chúng sanh Bổn Giác Lư tánh, cố tri: Thử giới nhĩ năng
niệm chi tâm tức thị Như Lai quả giác” (một
câu Phật hiệu này, đúng như sách Yếu Giải
đă dạy, chính là Lư tánh trong Bổn Giác của chúng sanh.
Cho nên biết: Cái tâm niệm Phật nhỏ nhoi này chính là
quả giác của Như Lai). Trong lần trước, chúng
ta đă đọc tới chỗ này. Câu này vẫn phải
nói rơ cặn kẽ hơn một chút, nó có quan hệ rất
lớn đối với sự niệm Phật của
chúng ta. Cái “giới nhĩ năng
niệm chi tâm” này là chân tâm, mà cũng là vọng tâm; trong
các thứ vọng tâm, nó gần với chân tâm nhất. V́
sao? Chẳng khởi tâm, chẳng động niệm nó là
chân tâm. Hễ khởi tâm động niệm, nó là vọng
tâm, chỉ là cái tâm bé nhỏ này vừa mới dấy lên [ư
niệm]. Nh́n từ phía chân và vọng, cái tâm này khó có; dùng
cái tâm này để niệm Phật th́ cái tâm ấy chính là “Như Lai quả giác”
được nói đến ở đây. Người ấy
chẳng mê, chẳng có Hoặc (phiền năo), [tức là] chẳng
mê hoặc. Khi một niệm tâm khởi lên, bèn A Di Đà Phật;
niệm Phật phải niệm theo cách như vậy. Nay chúng
ta là phàm phu, là lục đạo phàm phu chính cống; nếu
trong kinh Đại Thừa, đức Phật không nói ra,
chúng ta sẽ vĩnh viễn không nhận biết một niệm
tâm này. Nó quá vi tế, “giới
nhĩ” có nghĩa là “vi tế”
(nhỏ nhiệm), cực kỳ vi tế, chúng ta không có cách
nào nghĩ tưởng được!
Chúng ta vừa
mới dấy lên một niệm suy tưởng, Di Lặc
Bồ Tát đă bảo: Trong một niệm tưởng, có
“ba mươi hai ức trăm
ngàn niệm”, đấy là “giới
nhĩ năng niệm chi tâm” (cái tâm có thể niệm nhỏ
nhoi này). Chúng ta vừa mới tưởng, trong cái ư niệm
vừa dấy động ấy, bèn có ba mươi hai ức
trăm ngàn niệm. Di Lặc Bồ Tát đă cho chúng ta biết:
[Ba mươi hai ức trăm ngàn niệm chỉ là] trong
khoảng khảy ngón tay, cho nên không có cách nào thấu hiểu
điều này được! Trong kinh, đức Phật
cũng nói rất rơ khi nào quư vị mới có thể quan
sát, nhận biết những niệm vi tế này tồn tại:
[Phải là khi đă đạt đến] Bát Địa Bồ
Tát, tức Bát Địa Bồ Tát [trong Viên Giáo] như kinh Hoa
Nghiêm [đă nói]. Từ Thất Địa trở về
trước, đều không có cách nào cảm nhận
được! Bát Địa Bồ Tát có công phu định
lực như vậy, chúng ta gọi [công phu ấy] là “thanh tịnh tâm”. Cái tâm thanh tịnh
ấy đạt đến mức độ tinh thuần
như vậy, nên Ngài mới cảm nhận được.
Cao hơn nữa là Cửu Địa, Thập Địa,
Thập Nhất Địa (Đẳng Giác), trên nữa là
Diệu Giác, đó chính là viên măn, tức quả Phật rốt
ráo viên măn! Nay chúng ta nên học như thế nào? Phải rèn
luyện trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta có thể
học theo bí quyết về phương pháp huấn luyện
trong cuộc sống thường ngày của Ấn Quang
đại sư, bí quyết ǵ vậy? [Chính là] chữ Tử
trong “sanh tử”, thường nghĩ đến lúc phải
đối diện cái chết. Đừng sợ chết!
Quư vị phải biết: Chết là thân có sanh tử, chứ
linh hồn (thần thức) không có sanh tử! Nếu sau
khi chết, cái ǵ cũng đều không có, linh hồn
cũng chẳng có; nói chung, chúng ta cũng chẳng cần
phải học Phật, cũng chẳng cần phải tu
hành, giống như phàm nhân thường nói “người chết như ngọn đèn đă tắt”.
Chết rồi, cái ǵ cũng đều chẳng có! Không phải
vậy! Thân chết, linh hồn không chết; linh hồn lại
đi đầu thai, tức là nói “luân hồi trong lục
đạo”, chuyện này phiền phức lắm! Chúng ta phải
thật sự hiểu rơ, minh bạch chân tướng sự
thật này: [Thần thức] chẳng thể chết
được! Trong quá khứ, khi giảng kinh, tôi đă
nói rất nhiều lần, chết là phiền lắm! Phiền
phức quá lớn! Nhất định phải văng sanh Tịnh
Độ trong một đời này, văng sanh Tịnh Độ
là thành Phật!
Có thể
làm được hay không? Ai cũng có thể làm được!
Chỉ cần quư vị hiểu lời khải thị này
của pháp sư Ấn Quang, thường nghĩ thọ mạng
của ḿnh chỉ là một ngày hôm nay, đừng nghĩ sẽ
có ngày mai, [chỉ có ngày] hôm nay thôi, quư vị c̣n có ǵ mà không buông
xuống được? Chỉ có một ngày hôm nay, ngày hôm
nay là ngày cuối cùng, ta phải nên làm chuyện ǵ? Thật
thà niệm Phật, chẳng phải là đă thành công rồi
hay sao? Cách niệm như thế nào? Mỗi tế bào trên
thân thể ta đều là A Di Đà Phật, mỗi sợi
lông đều là A Di Đà Phật. Ta lại mở banh mắt
nh́n ra thế giới bên ngoài, nghe âm thanh bên ngoài, những
điều mà sáu căn tiếp xúc, chẳng có điều
nào không phải là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật trọn
khắp pháp giới; đấy là niệm Phật. Trong kinh
Đại Thừa, đức Phật đă giảng rất
hay: Hết thảy chúng sanh, “chúng
sanh” ở đây hiểu theo nghĩa rộng, không theo nghĩa
hẹp, do các duyên ḥa hợp sanh ra hiện tượng [th́
gọi] là chúng sanh, có hiện tượng nào chẳng phải
do các duyên ḥa hợp? Cái thân động vật của chúng
ta do các duyên ḥa hợp, [gọi theo] danh từ Phật học
là Tứ Đại, Ngũ Uẩn. Tứ Đại là vật
chất, Ngũ Uẩn là tinh thần, tức Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Tứ Đại và Ngũ Uẩn hợp thành
thân thể này. Hoa, cỏ, cây cối th́ sao? Hoa, cỏ, cây cối
cũng vậy, cũng do các duyên ḥa hợp mà sanh. Chúng ta thấy
thân tướng của chúng là hiện tượng vật
chất; chúng có Thọ, Tưởng, Hành, Thức hay không? Có
chứ! Không rơ ràng như động vật, tŕ độn
hơn động vật nhiều lắm, nhưng chúng có
[Thọ, Tưởng, Hành, Thức]. Nếu không có, làm sao chúng
ta có thể khởi cảm ứng đạo giao với
chúng?
Mười
năm gần đây nhất, tôi di dân sang Úc, lập một
đạo tràng tại Úc. Đất ở Úc rẻ, tiền
xây cất đạo tràng rất thấp, đất
đai đặc biệt rẻ. Hoàn cảnh sống của
tôi ở Úc là ở vùng nông thôn, cách thành phố mười
hai cây số, lái xe [vào thành phố mất] mười
lăm phút. Phía ngoài căn nhà tôi ở là sân, sân to chừng
nào? Cỡ một trăm bảy mươi mẫu Trung Quốc[1], sân to như vậy đó! Phía ngoài dùng dây
kẽm rào lại, đi ṿng quanh hàng rào ấy phải mất
một giờ. V́ thế, tôi trồng rất nhiều rau, rất
nhiều cây cối, hoa cỏ. Cây cối, hoa, cỏ có linh
khí, rau có linh khí, thực vật có linh tánh, chúng có [khả năng]
thấy nghe, hay, biết. Chúng ta dùng thiện tâm chăm sóc,
đối đăi chúng, chúng sẽ báo đáp tốt đẹp:
Hoa nở đặc biệt thơm, kết quả đặc
biệt ngọt, chúng đền đáp đấy! Chúng tôi
không dùng thuốc trừ sâu và phân hóa học. Thuốc trừ
sâu và phân hóa học sẽ tổn hại chúng, chúng chẳng
muốn tiếp nhận. Chúng giống như chúng ta, có một
phần tinh thần. Phật pháp nói đến tâm, thực
vật có tâm pháp. Chăm sóc vườn rau, vườn rau rất
lớn, chúng tôi tổ chức các hoạt động, rau
trong vườn có thể đủ cung cấp cho một
ngàn người ăn. Tổ chức các hoạt động
suốt bảy ngày có thể chẳng cần phải mua rau
ở bên ngoài. Vườn rau của chúng tôi có thể đủ
cho một ngàn người ăn mỗi ngày. Vườn rau
to ngần ấy, trồng rất nhiều loại. Pháp
sư Ngộ Khiêm cho tôi biết: Cô ta trông nom vườn
rau, một hôm nằm mộng, thấy có một trái dưa
leo báo mộng: “Tôi đă già khằng rồi mà các cô không hái”.
Quư vị thấy nó báo mộng cho cô ta v́ cô trông nom vườn
rau. Hôm sau, [thức dậy], cô ta cảm thấy lạ lắm,
băn khoăn: “Mỗi ngày ḿnh đều vào vườn, cớ
sao chẳng thấy?” T́m đúng vị trí [trái dưa] đă
chỉ [trong giấc mộng], quả nhiên có một trái
dưa; nó khuất sau mớ dây leo nên chẳng thấy. Cô ta
thấy nó đúng là quá già, chẳng thể nào ăn
được. Thôi! Để dành làm giống vậy! Quư vị
thấy đó: Dưa có thể báo mộng cho quư vị; cho
nên nó có linh tánh, quư vị đừng coi rẻ, xem thường
nó! Quư vị phải tôn trọng nó. Không chỉ cây cối,
hoa, cỏ có linh tánh, mà núi, sông, đại địa cũng
có linh tánh, cũng tức là nói “khoáng
vật có linh tánh”. Tiến sĩ Giang Bổn Thắng của
Nhật Bổn làm thí nghiệm với nước, nhà khoa học
này thừa nhận, ông ta chẳng bịa chuyện. Ông ta
làm thí nghiệm mười hai năm, nước là khoáng vật,
nó có thể thấy và nghe, hiểu ư nghĩ của con
người. Sau khi tin tức này được công bố,
nói theo Phật pháp, [sở dĩ nước có thể thấy,
nghe, hiểu ư là v́] tất cả hết thảy khoáng vật,
núi, sông, đại địa đều có linh tánh, cũng
có thể nói là chúng đều có Thọ, Tưởng, Hành,
Thức. Thân thể của động vật là Ngũ Uẩn,
nhưng thực vật và khoáng vật cũng chẳng ra
ngoài lệ ấy, chẳng ĺa Ngũ Uẩn, chỉ là mức
độ mẫn cảm khác nhau. Động vật mẫn
cảm nhất, rơ ràng nhất, thực vật kém hơn, khoáng
vật kém hơn nữa, nhưng vẫn có linh tánh. Do điều
này, chúng ta mới thật sự hiểu một hạt vi
trần có là A Di Đà Phật hay không? Đúng vậy! Một
sợi lông có phải là A Di Đà Phật hay không? Phải! A
Di Đà Phật ở đâu? Khắp pháp giới hư không
giới, không chỗ nào chẳng phải là A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật là tự tánh, là Tánh Đức của
chúng ta. Một niệm của chúng ta vừa dấy lên, bèn
tương ứng viên măn với Tánh Đức, đó gọi
là niệm Phật. “Giới
nhĩ năng niệm chi tâm” chính là quả giác của Như
Lai, chẳng giả tí nào!
“Thị cố, Quán Kinh vân” (Do
vậy, Quán Kinh nói). Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh
là một trong ba kinh Tịnh Độ, bộ kinh này giảng
về lư luận và phương pháp tu hành; c̣n kinh Vô Lượng
Thọ là Tịnh Tông khái luận, giới thiệu toàn thể
y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Quán Kinh chuyên giảng về hai bộ phận
lư luận và phương pháp. Kinh A Di Đà là lược bổn
(bản rút gọn) của kinh Vô Lượng Thọ, tức
là một phiên bản (version) tinh giản, thuận tiện
cho quư vị học tập trong khóa sáng và khóa tối. Trong
kinh ấy, có bốn lần khuyên dạy, chẳng dễ
có, rát miệng, buốt ḷng khuyên bảo chúng ta hăy tin tưởng,
hăy phát nguyện, phải cầu sanh Tịnh Độ, [làm
như thế] là đúng. Đây là chư Phật Như Lai bi
tâm vô tận, mong cho chúng ta thành tựu trong một đời.
Trong các kinh điển khác, đức Phật chẳng
khuyên chúng ta nhiều như thế, nhưng trong kinh Di
Đà khuyên tới bốn lần; cũng có nghĩa là pháp
môn này đảm bảo quư vị sẽ thành tựu trong một
đời. Chỉ cần thật sự làm được,
chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn,
sẽ thành công. Đại Thế Chí Bồ Tát đă làm
gương cho chúng ta thấy. Trong Quán Vô Lượng Thọ
Phật Kinh, có hai câu như sau: “Thị
tâm thị Phật, thị tâm tác Phật” (Tâm này là Phật,
tâm này làm Phật); đây là nguyên văn hai câu trong kinh ấy.
“Tâm này là Phật”, tôi vừa
mới nói lắm lời như vậy chỉ nhằm giải
thích bốn chữ này! Tôi nói tới các tế bào trên toàn
thân chúng ta th́ tế bào vẫn c̣n lớn. Nếu chia chẻ
tế bào, sẽ biến thành phân tử. Lại chia chẻ
phân tử, sẽ biến thành nguyên tử. Chia đến
cuối cùng là hạt cơ bản. Mỗi hạt cơ bản
đều là A Di Đà Phật, do tâm biến ra. Hạt
cơ bản là tâm, tâm này là Phật, lẽ nào các hạt
cơ bản ấy chẳng phải là Phật! Tất cả
tế bào trên thân tôi đều là Phật, các tế bào trên
thân quư vị có là Phật hay không? Là! Ngay cả cây cối,
hoa cỏ, núi, sông, đại địa đều là! Từ
chỗ này, quư vị sẽ giác ngộ: Chẳng có một
pháp nào chẳng phải [là A Di Đà Phật]! Hễ giác ngộ,
pháp nào cũng đều như thế. Do vậy, kinh Phật
được mở đầu bằng câu “như thị ngă văn”, “như thị” là ǵ vậy?
Như là Chân Như. “Tướng
giống như Tánh, Tánh giống như Tướng, Tánh và
Tướng bất nhị”. Tánh là Phật, lẽ nào
Tướng chẳng phải là Phật! Đâu có lẽ ấy!
Tâm này là Phật, có chuyện ǵ chẳng phải là Phật!
Chúng ta phải hiểu rơ đạo lư này, Phật là ǵ? Phật
là tâm, là chân tâm, chẳng phải là vọng tâm, là ǵ? Cái tâm có
thể sanh, có thể hiện. Cái tâm có thể biến chính
là thức tâm, tức A Lại Da Thức, chuyển các tướng
“có thể hiện, có thể sanh” thành y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới, chuyển biến thành lục
đạo luân hồi. Đó là chuyện thực hiện bởi
thức tâm. Thức là ǵ? Là phân biệt, chấp trước.
Thức thức sáu, tức Ư Thức, phân biệt; thức
thứ bảy chấp trước, Mạt Na chấp
trước. Thức thứ sáu phân biệt, thiên biến vạn
hóa. Sách Hoàn Nguyên Quán nói có ba thứ “châu biến” (trọn khắp), “xuất sanh vô tận” (sanh ra vô tận) chính là nói
về ư nghĩa này. Tâm này là Phật, không ǵ chẳng phải
Phật, dùng tâm này để tŕ danh, niệm Phật.
“Tâm này làm Phật”, làm Phật
như thế nào? Niệm Phật là làm Phật, niệm Bồ
Tát là làm Bồ Tát, niệm A La Hán là làm A La Hán. Người
trong thế gian hiện nay niệm ǵ? Đầu óc nghĩ
tới tiền, nghĩ nhớ tài, sắc, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghỉ, nghĩ tới những thứ
này. Niệm những điều này sẽ biến thành những
điều này, niệm ǵ sẽ biến ra đó, giống
như ống kính vạn hoa vậy, niệm cái ǵ sẽ biến
ra cái đó. [Niệm ngũ dục] sẽ không phải là Phật.
Tài sắc là ǵ? Thưa quư vị, tài sắc là ngạ quỷ,
địa ngục. V́ sao? Quư vị nổi tâm tham. Tâm tham là
ngạ quỷ, sân khuể là địa ngục, ngu si là súc
sanh. Ngu si là chẳng liễu giải chân tướng sự
thật, nên gọi là ngu si. Trong thế gian hiện thời,
mấy ai hiểu rơ chân tướng sự thật? Nếu
chúng ta không học kinh giáo Đại Thừa, sẽ chẳng
có cách nào thoát khỏi ngu si; chỉ có những kinh điển
Phật pháp Đại Thừa mới giúp chúng ta phá mê khai
ngộ. “Ngộ” ở đây chẳng phải là chứng
ngộ, mà là giải ngộ, chúng ta đă hiểu rơ. V́ sao chưa
chứng đắc? Chưa buông xuống! Thật sự
buông xuống là cảnh giới nào? Tôi vừa mới nói đấy
thôi! Khi thật sự buông xuống, niệm niệm đều
là A Di Đà Phật, chẳng phải là thô niệm, mà là tế
niệm, niệm niệm thật sự giác ngộ. Trong cảnh
giới ấy chẳng có lục đạo, chẳng có
mười pháp giới, cảnh giới ấy là cơi Thật
Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Chúng ta gọi
cảnh giới ấy là Nhất Chân pháp giới, “nhất”
là thật, “nhị” là giả. Quư vị đọc đoạn
thứ nhất trong Hoàn Nguyên Quán, tức bài văn của Hiền
Thủ đại sư, [Ngài đă giảng về] Nhất
Chân, [cảnh giới] đó là thật: “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể”. Tự tánh
thanh tịnh viên minh thể là tâm, là Phật, chẳng hai;
tâm và Phật là một, chẳng hai. Khởi lên nhị dụng
th́ sao? Khởi lên nhị dụng sẽ biến đổi!
Nhị dụng là ǵ? Vũ trụ xuất hiện, vạn
vật xuất hiện, ta xuất hiện! Ta là chánh báo; trừ
chánh báo ra, tất cả hết thảy hoàn cảnh đều
là y báo. Trong y báo, có y báo nhân sự, tức là quan hệ giữa
con người với nhau, và y báo hoàn cảnh vật chất.
Hễ ư niệm vừa dấy lên, y báo và chánh báo trang nghiêm đều
xuất hiện. Khi nó xuất hiện, nó chưa biến, đều
do tự tánh hiện; do vậy, có thể hiện, có thể
sanh, nhưng chẳng biến hóa. Đấy gọi là Nhất
Chân pháp giới.
Nhưng
nếu khởi phân biệt, [cảnh giới] sẽ biến
đổi.
Nhưng cơi
Đồng Cư và Phương Tiện trong thế giới
Tây Phương không giống với thế giới của
chúng ta. Ở nơi đây (thế giới Sa Bà), chúng ta có
chướng ngại; thứ bậc khác nhau sẽ chẳng
thấy được [cảnh giới của các cơi Tịnh
Độ khác]. Tây Phương Cực Lạc thế giới
là thế giới b́nh đẳng, không có chướng ngại.
Điều này giống như ǵ? Chúng ta học tập trong
nhà trường, Tiểu Học và Trung Học chẳng ở
chung trong một trường, học tṛ Tiểu Học chẳng
thể đến trường Trung Học; mà học tṛ
Trung Học cũng chẳng thể đến [học
trong] trường Tiểu Học. Trong Tiểu Học, c̣n
có các lớp khác nhau; những tṛ cùng một lớp sẽ học
chung với nhau. Nếu khác lớp, tuy là bạn đồng
học, chẳng thường gặp mặt, chẳng cùng
lên lớp với nhau. Thế giới Cực Lạc rất
đặc biệt, Tiểu Học, Trung Học, Đại
Học cùng nghe giảng trong một pḥng học; cho nên gặp
mặt mỗi ngày, thật sự là đồng học. Học
tṛ lớp Một, lớp Hai Tiểu Học cùng học với
các đàn anh sinh viên Đại Học năm thứ nhất,
năm thứ hai thuộc hệ nghiên cứu sinh, gọi
nhau là huynh đệ hay đồng học,
gặp mặt mỗi ngày. Đấy là chỗ chẳng thể
nghĩ bàn của thế giới Cực Lạc.
Mười phương thế giới không có trạng huống
và t́nh h́nh này, thù thắng lắm! Do vậy, thế giới
Cực Lạc là “sanh vào một, là sanh hết thảy”. Quư vị sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng
Cư, gần như cũng đồng thời sanh vào cơi
Phương Tiện và cơi Thật Báo. Đây là lư do v́ sao Thích
Ca, Di Đà khuyên chúng ta văng sanh, chư Phật trong mười
phương thế giới cũng khuyên chúng ta văng sanh,
đạo lư ở chỗ này. Nếu trong một đời
này, chúng ta chẳng thể văng sanh, làm sao xứng với Phật
Thích Ca? Làm sao xứng với Phật Di Đà? Làm sao xứng
với mười phương chư Phật? Những câu
này, câu nào cũng đều là lời chân thật. V́ thế,
hai câu nói “tâm này là Phật, tâm
này làm Phật” đă nói trọn hết [những
nghĩa lư tinh vi của pháp môn Tịnh Độ].
Tiếp đó,
cụ Hoàng Niệm Tổ viết: “Bổn lai thị Phật, hiện hựu tác Phật.
Thị cố, đương hạ tức Phật” (Vốn
sẵn là Phật, nay lại làm Phật; cho nên, ngay lập
tức là Phật). Câu này chẳng phải nhằm khuyến
khích, cổ vũ chúng ta, mà là sự thật, vấn đề
ở chỗ nào? Vấn đề là bản thân chúng ta không
dám gánh vác, bản thân chúng ta chẳng dám thừa nhận!
Không dám gánh vác, không dám thừa nhận là đúng, như thế
nào là đúng? Vốn là Phật! Chẳng cần nói năng
chi nữa, lời này là đúng! Nay lại làm Phật, quư vị
hữu danh vô thực! Niệm A Di Đà Phật để
mong thành Phật, nhưng có rất nhiều nghi vấn đối
với câu Phật hiệu ấy, thật hay chăng? Có rất
nhiều câu hỏi trong đó! Niệm một câu Phật hiệu
này, có rất nhiều xen tạp; nhưng xen tạp những
ǵ, chính quư vị cũng chẳng biết! V́ sao không biết?
Do quư vị ngu si, tham, sân, si. Nếu chẳng ngu si, sẽ
biết điều ǵ xen tạp. Do ngu si, nên xen tạp mà chẳng
biết; v́ thế, công sức chẳng thuần. Niệm Phật
lập tức thật sự là Phật, nhưng v́ quư vị
công phu chẳng thuần, chẳng đạt tiêu chuẩn, cứ
hướng theo phương hướng đó th́ sẽ chẳng
sai, nhưng chưa đạt được mục tiêu
này. Làm sao để chẳng hoài nghi? Phải thấy thấu
suốt. Khi tôi mới học Phật, thầy dạy tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”.
Thấy thấu suốt là hiểu rơ minh bạch chân tướng
sự thật. Kẻ căn tánh trung hạ như chúng ta chỉ
có thể từ từ hiểu rơ kinh giáo. Sau khi hiểu rơ,
quư vị cũng rất dễ buông xuống. Chính quư vị
biết “chẳng buông xuống là sai”, lầm lẫn quá
đỗi! V́ sao phải buông xuống? V́ nó (phiền năo, mê
hoặc, chấp trước, phân biệt, vọng tưởng)
vốn không có, hết thảy đều là giả! Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng, vạn
pháp đều Không. Khi đến cơi Thường Tịch Quang
Tịnh Độ, nhân quả cũng là không.
“Trực tiệp liễu đáng,
phương tiện cứu cánh, kỳ đặc thù thắng,
bất khả tư nghị” (Thẳng chóng ổn thỏa,
thích đáng, phương tiện rốt ráo, đặc biệt
lạ lùng thù thắng, chẳng thể nghĩ bàn). Mấy
câu này là lời tán thán bộ kinh này và pháp môn này, thù thắng
khôn sánh. Chúng ta có thể gặp gỡ, tức là có nhiều
phước báo. Thật đấy, trong pháp giới hư
không giới, bao nhiêu vị Bồ Tát mong cầu mà chẳng
cầu được. Đạo tràng này của chúng ta tuy
không lớn, thính chúng đông đảo, lũ chúng ta mắt
thịt chẳng thấy. Khi quư vị thấy được,
sẽ biết thính chúng nhiều vô số. Tuy chúng ta ở
đây mở toang cửa, hoan nghênh mọi người, chẳng
có bất luận điều kiện ǵ, nhưng rành rành là vẫn
có thần hộ pháp, có chẳng ít chúng sanh bị thần hộ
pháp chặn ở ngoài cửa, không vào được. Chúng
ta thờ bài vị, là thiết lập chỗ ngồi cho họ,
để họ có chỗ ngồi, có thể tiến vào
nghe kinh, đến nơi đây tu hành. Hết thảy pháp toàn
là huyễn hóa, chẳng có lớn hay nhỏ. Lớn hay nhỏ
tùy thuộc tâm lượng của quư vị. Tâm lượng
càng lớn, đạo tràng càng to. Tâm lượng nhỏ
nhoi, đạo tràng sẽ bé tí, đại đạo tràng
cũng biến thành tiểu đạo tràng. Tâm lượng
lớn, tiểu đạo tràng cũng biến thành đại
đạo tràng, chẳng thể nghĩ bàn! “Tiện dĩ Tịnh Độ chư kinh chi trung,
duy thử kinh bị nhiếp viên diệu” (Ấy là v́
trong các kinh Tịnh Độ, chỉ có kinh này gồm trọn
các điều mầu nhiệm viên măn). Tịnh Độ có
tam kinh, trong phần trên tôi đă thưa với quư vị, cư
sĩ Ngụy Mặc Thâm đem quyển cuối cùng của
kinh Hoa Nghiêm, ghép vào sau Tam Kinh, biến thành Tứ Kinh; Ấn
Quang đại sư đem Đại Thế Chí Bồ Tát
Niệm Phật Viên Thông Chương của kinh Lăng
Nghiêm ghép vào cuối Tứ Kinh, biến thành Tịnh Độ
Ngũ Kinh, viên măn! Tu Tịnh Độ năm kinh này là viên
măn. Trong ngũ kinh, bộ kinh nào giảng viên măn nhất, một
chút khiếm khuyết cũng không có? Đó là kinh Vô Lượng
Thọ; v́ thế, cổ đại đức tán thán bộ
kinh này là cực viên, cực diệu.
“Dĩ phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm vi Tông, dĩ Di Đà thập niệm
tất sanh chi đại nguyện vi bổn” (Lấy
phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm làm Tông,
lấy đại nguyện “mười niệm ắt
sanh” của Phật Di Đà làm gốc). Hai câu này rất
quan trọng! Phẩm Tam Bối Văng Sanh trong kinh này đă giảng
rất rơ ràng [ư nghĩa của] “phát
Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”.
Phẩm Tam Bối Văng Sanh gồm bốn đoạn kinh
văn: Thượng bối văng sanh, trung bối văng sanh, hạ
bối văng sanh; đoạn cuối cùng là tu học Đại
Thừa Phật pháp, bất luận tu học pháp môn nào, đem
công đức đă tu hồi hướng cầu sanh Tịnh
Độ, sẽ đều có thể văng sanh. Quư vị thấy
pháp môn Tịnh Độ này lớn như thế đó! Trong
khoa phán, pháp sư Từ Châu đă đặt đề mục
cho đoạn này là Nhất Tâm Tam Bối, đặt hay lắm,
đă gồm thâu toàn bộ Phật pháp. Phát Bồ Đề
tâm, Bồ Đề tâm là ǵ? Điều này thường
được nói tới. Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh giảng Bồ Đề tâm là “chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện
tâm”, kinh dạy như thế. Trong Đại Thừa Khởi
Tín Luận, Bồ Đề tâm được giảng là “trực tâm, thâm tâm, đại bi
tâm”. Gộp chung kinh và luận lại để xem, ư
nghĩa rất rơ rệt. Thể của Bồ Đề tâm,
cũng là chân tâm trong Bồ Đề tâm, Thể của
chân tâm là ǵ? Là chân thành. Chân thành đến chỗ cùng cực
th́ gọi là chí thành, tức chí thành tâm. Trực tâm như Khởi
Tín Luận đă nói: Chẳng có mảy may cong vạy nào, đó
chính là chân thành. Chúng ta chiếu theo kinh luận để hiểu
ư nghĩa. “Thâm tâm” chẳng
dễ giải thích. Cổ đại đức giải
thích [thâm tâm] là ưa thiện, chuộng đức, giải
thích thâm tâm như thế. Thâm tâm là tự thụ dụng, dành
cho chính ḿnh. Đại bi tâm là đối người khác,
từ bi đối người khác. Do vậy, trong hơn
hai mươi năm trước, tôi giảng kinh này, dùng
ngay [những từ ngữ trong] tựa đề kinh Vô
Lượng Thọ “thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác”, đó là thâm tâm. Chân thành tâm
như đă nói trong phần trên chính là cái Thể của Bồ
Đề tâm. “Thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác” là Tự Thụ Dụng, từ
bi là Tha Thụ Dụng. Nói cách khác, dùng tâm ǵ đối với
chính ḿnh? “Thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác”. Dùng tâm ǵ đối với người
khác? Đại từ đại bi. Đây gọi là “phát Bồ Đề tâm”.
Chúng ta tu
hành là tu điều ǵ? Tu tâm. Tâm chúng ta có thanh tịnh hay
không? B́nh đẳng hay bất b́nh đẳng? Tâm thanh tịnh
là giới luật, tâm b́nh đẳng là Thiền Định,
tâm Chánh Giác là trí huệ, Giới - Định - Huệ.
Chúng ta học Giới - Định - Huệ như thế
nào, quư vị phải hiểu rơ: Nếu tŕ giới mà tâm chẳng
thanh tịnh, quư vị đă uổng công tŕ giới! Tu Định
mà chẳng khai trí huệ, cũng uổng công tu Định!
Nhân Giới đắc Định, do Định khai Huệ.
V́ thế, tŕ giới là phương tiện, không phải là
mục đích, [tŕ giới] nhằm muốn đạt tới
Thiền Định, đạt tới b́nh đẳng. B́nh
đẳng mới là Định. Nếu chúng ta thật sự
đạt được cái tâm thanh tịnh, thưa quư vị,
Thủy Tai trong Tam Tai chẳng c̣n nữa. Tâm b́nh đẳng
hiện tiền, động đất chẳng c̣n nữa.
Hôm nay, có một đồng học đưa cho tôi xem một
tài liệu, gần như chưa đầy một tháng,
động đất cấp sáu[2] trở lên đă xảy ra mười mấy
lần tại các nơi trên toàn thế giới, liên tiếp
xảy ra như thế là do nguyên nhân ǵ? Từ cấp sáu trở
lên đă đáng sợ lắm, [có trường hợp
động đất] đến cấp tám. Sau khi giác ngộ,
Phong Tai chẳng c̣n nữa. Ngu si cảm Phong Tai. Nếu chứng
đắc tâm b́nh đẳng, nhiệt độ của địa
cầu sẽ chẳng tăng lên, khôi phục b́nh thường.
V́ thế, đức Phật chỉ dạy chúng ta: “Cần tu Giới, Định,
Huệ, tức diệt tham sân si” (siêng tu Giới, Định,
Huệ, dứt diệt tham, sân, si). Cảm ứng của
tham, sân, si là tai nạn, là bất thường. Giới,
Định, Huệ là b́nh thường. Do vậy, phải
phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm, một
phương hướng là Tây Phương, một mục
tiêu là thế giới Cực Lạc, một nguyện vọng
là thân cận A Di Đà Phật, chúng ta sẽ thành công trong một
đời này, những thứ khác đều là giả.
Học rộng nghe nhiều
khá lắm, nhưng [tai ương, vô thường] xảy
đến, [trở tay] chẳng kịp! Do vậy, tôi
thường khuyên các đồng học: Học rộng
nghe nhiều tốt lắm, nhưng sang thế giới Cực
Lạc hăy làm. V́ sao? Sang bên đó, điều đầu
tiên mà chúng ta đạt được là Vô Lượng Thọ,
dẫu học nhiều thứ vẫn được! Ta có
thời gian mà! Ở nơi đây, sanh mạng quá ngắn ngủi,
chúng ta chớ nên lăng phí thời gian, đừng lăng phí!
Hơn nữa, trong thế gian này, trí huệ chưa khai, học
ǵ cũng chẳng viên măn, hiểu biết nửa vời, lại
c̣n phạm rất nhiều sai lầm, cớ ǵ cứ phải
như thế? Do vậy, phải thật thà, phải nghe lời!
Đức Phật dạy chúng ta một mực chuyên niệm,
đức Phật dạy như thế trong kinh văn của
kinh Vô Lượng Thọ. Tông (宗) là tôn chỉ, Tông nghĩa là ǵ? Là điều
quan trọng nhất. Đây là nói về phương pháp tu
học. [Tông] là phương pháp tu học quan trọng nhất,
là phương pháp đáng tôn sùng nhất, thập
phương chư Phật đều tán thán. Phương
pháp tu học chủ yếu của Tịnh Tông là “nhất hướng chuyên niệm”.
Chữ “Tông” có ba ư nghĩa ấy.
“Dĩ Di Đà thập niệm tất
sanh chi đại nguyện vi bổn” (lấy đại
nguyện “mười niệm ắt
sanh” của Phật Di Đà làm gốc). Đây là nguyện
thứ mười tám; “phát Bồ
Đề tâm” là nguyện thứ mười chín. Đây
là hai nguyện trọng yếu nhất trong bốn
mươi tám nguyện. Cổ đại đức nói
nguyện nào trọng yếu nhất trong bốn
mươi tám nguyện? Mọi người đều nói là
nguyện thứ mười tám. Nguyện thứ mười
tám là “mười niệm hay một
niệm, đều có thể văng sanh”. Điều kiện
là ǵ? Điều kiện là trọn đủ tín nguyện.
Một niệm hay mười niệm là nói về lúc nào? Là
nói khi quư vị văng sanh, lúc quư vị rời khỏi thế
gian, niệm cuối cùng [trong lúc ấy]. Niệm cuối
cùng là A Di Đà Phật, do niệm ấy bèn văng sanh. Do vậy,
lúc lâm chung, nếu một niệm vẫn là nghĩ tới
tài sản trong nhà, xong luôn! Sẽ đi vào quỷ đạo!
Nếu nghĩ tới kẻ nào khiến ta bị oan uổng,
ta vẫn c̣n hận hắn, sẽ sanh vào địa ngục!
Một niệm cuối cùng quyết định quư vị từ
nơi này rốt cuộc sẽ sanh về đâu, mấu chốt
ở một niệm ấy; v́ thế, một niệm rất
trọng yếu! Điều quan trọng nhất trong việc
đưa người khác đi văng sanh (trợ niệm) là
giúp cho người ấy trong một niệm cuối cùng
đừng quên mất A Di Đà Phật. Chúng ta vây quanh
người ấy, niệm niệm đều là A Di Đà
Phật, nhắc nhở người ấy, công đức
vô lượng, bảo người ấy không nên có ư niệm
nào khác. Cổ đại đức đă làm rất tốt,
không cho phép người nhà, quyến thuộc gần gũi
người sắp mất. Khi người ấy sắp tắt
hơi, người nhà, quyến thuộc lánh đi để
người ấy chẳng khởi lên t́nh chấp. Hễ t́nh
chấp dấy lên, ngay lập tức [người sắp
mất ấy] bị đọa lạc, sanh trong tam ác đạo.
Người nhà, quyến thuộc rời khỏi, các đồng
tham đạo hữu giúp đỡ; đấy là chính xác. [Dẫu]
người nhà, quyến thuộc học Phật, tốt
nhất là cũng nên rời khỏi, [kẻo] người
sắp mất thấy con cháu sẽ dấy động t́nh
cảm, khi ấy, sẽ là vấn đề nghiêm trọng.
V́ thế, người nhà, quyến thuộc rời khỏi
người chết là chuyện hết sức hợp lư.
“Thâm minh tam bối văng sanh chi nhân”
(Nêu tỏ sâu xa cái nhân văng sanh của ba bậc). Trong kinh,
đức Phật đă nói rất rơ ràng, trong hai
chương Tam Bối Văng Sanh và Văng Sanh Chánh Nhân đă nói rơ
ràng, minh bạch. “Quảng nhiếp
cửu giới thánh phàm chi chúng” (rộng nhiếp các bậc
thánh phàm trong chín pháp giới): Pháp môn này quá lớn, có năng
lực nhiếp thọ chúng sanh trong chín pháp giới. Trong
chín pháp giới, ba pháp giới phía trên là Bồ Tát, Duyên Giác,
Thanh Văn, chúng ta gọi họ là thánh nhân. Bồ Tát là đại thánh, Thanh Văn và Duyên Giác
là tiểu thánh. Trong lục đạo đều là phàm phu,
phàm chúng. Niệm Phật văng sanh Tịnh Độ là đi
làm Phật, ai nấy đều có phần, quỷ thần
cũng có phần, trời, người cũng có phần,
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát cũng có phần, vấn
đề là quư vị có phước báo và duyên phận gặp
gỡ hay không? Đă gặp, quư vị bèn tin tưởng,
phát nguyện văng sanh th́ sẽ thành. Nói theo Lư, đáng lẽ
Bồ Tát, A La Hán dễ [có phước đức và nhân duyên
tu pháp môn này] hơn chúng ta; v́ sao kinh nói “trong mười pháp
giới, nhân gian văng sanh thuận tiện nhất”, do nguyên
nhân nào? Trong Tứ Thập Nhị Chương Kinh có tỷ
dụ: “Phú quư học đạo
nan”; người phú quư hưởng phước, quên tuốt,
coi thường chuyện học Phật. Bần cùng học
đạo cũng khó! Kẻ bần cùng cuộc sống quá
khổ, ba bữa c̣n chưa đủ ăn, bận bịu
kiếm sống, chẳng có thời gian để học
Phật. C̣n loài người th́ sao? Chẳng thể coi là rất
giàu có, nhưng cũng là chẳng thanh bần, thuộc loại
thường thường bậc trung, dễ giác ngộ, dễ
tu hành. Thuận tiện ở chỗ này! Chúng ta có thể hiểu
được! Cuộc sống của chư thiên nhân tốt
đẹp hơn chúng ta, phước báo to lớn; c̣n tam ác
đạo th́ sao? Quá khổ sở!
Hiện
thời, dường như t́nh h́nh có biến hóa đôi chút.
Tôi nghe không ít tin tức, ngay cả ngạ quỷ, địa
ngục niệm Phật văng sanh cũng không ít; ngược
lại, con người chẳng tin! Người niệm Phật
đến cuối cùng đều niệm đến nỗi
sanh vào quỷ đạo hay địa ngục, chuyện này
là như thế nào? Đối với chuyện này, nếu
chư vị đọc bộ Đại Thế Chí Viên Thông
Chương Sớ Sao của pháp sư Từ Vân Quán Đảnh,
Đại Thế Chí Viên Thông
Chương rất ngắn, hai trăm bốn mươi bốn
chữ, mà bản chú giải của Ngài là một quyển
dầy như thế. Bản tôi đọc chính là loại
sách đóng gáy bằng cách xâu chỉ, là một quyển dầy
như thế đó! Nơi trang cuối, thuở ấy, tôi
đọc mà không hiểu, Ngài nói một trăm thứ
quả báo của người niệm Phật; câu đầu
tiên là người niệm Phật đọa A Tỳ địa
ngục, đọa ngạ quỷ, đọa súc sanh. Tôi đọc
xong, hết sức nghi hoặc, cầm cuốn sách ấy đến
hỏi thầy, tôi học kinh giáo với lăo cư sĩ Lư
Bỉnh
“Chánh hiển tŕ danh niệm Phật
chi pháp, trực chỉ văng sanh quy nguyên chi lộ. Thị cố,
thử kinh xưng vi Tịnh Tông đệ nhất kinh dă” (Chỉ rơ ràng phương pháp Tŕ Danh Niệm
Phật, chỉ thẳng con đường văng sanh để
trở về nguồn. V́ thế, kinh này được gọi
là kinh bậc nhất của Tịnh Tông). Quả thật tổ
sư đại đức đă chỉ rơ phương
pháp Tŕ Danh Niệm Phật; đấy là chỉ thẳng,
không đi đường ṿng, chỉ thẳng thừng một
con đường gần nhất, con đường thẳng
ấy không ngoằn ngoèo. Dẫn đến đâu? Văng sanh
quy nguyên! “Quy nguyên” là trở
về nguyên thủy, nguyên thủy là ǵ? Tự tánh. Y báo và
chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới từ tự
tánh biến hiện. Tự tánh có thể sanh, có thể hiện,
A Lại Da có thể biến; đấy là y báo và chánh báo
trang nghiêm trong mười pháp giới. Chúng ta gặp Phật,
Bồ Tát; Phật, Bồ Tát cũng ở trong mười
pháp giới, cũng có cùng một hoàn cảnh bị khổ,
chịu nạn như chúng ta, nhưng các Ngài giác ngộ, quy
nguyên, trở về tự tánh. Chúng ta thường nói các Ngài
“thành Phật, thành Bồ Tát”, trở về tự tánh. Các
Ngài hiểu rơ, minh bạch, nên các Ngài đến chỉ dạy,
giáo hóa chúng ta làm thế nào thoát ly biển khổ. Lục
đạo là biển khổ. Trong biển khổ sâu thẳm,
tứ thánh pháp giới là chỗ ven bờ, chỗ biển
cạn, lên được bờ mới tính là thoát ly. Bờ
ấy được gọi là “bỉ
ngạn” (bờ bên kia), là “Niết
Bàn bỉ ngạn”. Niết Bàn là bất sanh, bất diệt,
công đức viên măn. Bỉ ngạn là cơi Thật Báo Trang
Nghiêm. Đức Phật giáo hóa, giúp đỡ hết thảy
chúng sanh [đạt đến Niết Bàn] mới được
coi là viên măn. Do vậy, kinh này là kinh bậc nhất của Tịnh
Tông, Tịnh Tông đồng học chẳng thể không học.
Lại đọc
tiếp: “Đản thử thù
thắng đệ nhất chi Tịnh Tông bảo điển,
cánh tại ngă quốc Đại Tạng trung trần phong
nhất thiên dư niên” (Nhưng kinh điển quư báu bậc
nhất của Tịnh Tông này bị bụi phủ trong Đại
Tạng Kinh nước ta đă hơn một ngàn năm). Kinh
Vô Lượng Thọ được truyền sang Trung Quốc
sớm nhất, vào thời đại Đông Hán. Vào thời
Hậu Hán, ngài An Thế Cao đến Trung Quốc, kinh Vô
Lượng Thọ liền được truyền sang Trung
Quốc, cho nên cũng là kinh được phiên dịch sớm
nhất. Thời đại Đông Tấn, Huệ Viễn
đại sư lập Niệm Phật Đường tại
Lô Sơn, tức Đông Lâm Niệm Phật Đường,
nay là Đông Lâm Tự, [là đạo tràng] cho các đồng
học chuyên tu Tịnh Độ, trong ấy người tại
gia lẫn xuất gia, tổng cộng một trăm hai
mươi ba người. Một trăm hai mươi ba người
cùng nhau niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thưa
cùng quư vị, kinh điển để làm căn cứ là
kinh Vô Lượng Thọ, v́ khi đó, kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật và kinh A Di Đà đều chưa truyền
sang Trung Quốc, kinh điển Tịnh Tông chỉ có một
bộ này. V́ thế, cả nhóm người của vị tổ
sư đời thứ nhất là Huệ Viễn đại
sư dựa theo kinh Vô Lượng Thọ, không dễ dàng!
Đối với bộ kinh này mà có thể tin, có thể hiểu,
có thể phát nguyện, có thể thật sự hành, há dễ
dàng ư? Chúng ta xem truyện kư của Huệ Viễn đại
sư trong Cao Tăng Truyện, quư vị có thể thấy được
t́nh h́nh tu hành nồng nhiệt thuở ấy. Họ kết
giới an cư, phía trước [đạo tràng] có một
con suối nhỏ, tên là Hổ Khê. Chúng tôi suy đoán, chắc
là khi ấy trên núi có cọp, nên mới gọi là Hổ Khê.
Hổ Khê là giới tuyến của họ, người tu
hành nhất định chẳng rời khỏi giới tuyến
này. Tại Trung Quốc, Nho, Thích, Đạo là một nhà, nên
cũng có một câu chuyện về Viễn Công được
gọi là Hổ Khê Tam Tiếu. Có hai người bạn thân
đến thăm, Đào Uyên Minh (Đào Tiềm) là Nho gia, Lục
đạo trưởng tu Đạo, tới Đông Lâm thăm
Viễn Công, nói chuyện rất cao hứng. Lúc chia tay, Viễn
Công đưa tiễn, vô t́nh vượt qua Hổ Khê. Bước
qua chiếc cầu bắt ngang Hổ Khê, sau khi bước
qua khỏi, ba người cười ha hả. Đó là giới
tuyến, chẳng thể vượt qua, mà nghiễm nhiên
đi quá lố. V́ thế, truyền thống văn hóa Trung
Quốc chẳng tách rời Nho, Thích, Đạo, vững vàng
như cái đỉnh có đủ ba chân.
Viễn Công
nương theo bộ kinh này tu hành; nhưng người
đời sau không sốt sắng dốc công nơi kinh này
như vậy, là v́ không lâu sau đó, ước chừng chưa
đầy năm mươi năm, kinh Di Đà và Quán Kinh được
dịch ra. Quả thật, vào thời kỳ đầu của
Tịnh Tông, điển tịch Phạn văn được
truyền sang Trung Quốc, người ta thường dốc
công nhiều nhất nơi kinh Di Đà, chú sớ [kinh Di Đà]
cũng nhiều nhất. Hơn một ngàn năm qua, kinh này
(kinh Vô Lượng Thọ) không được Tịnh Tông
chú trọng v́ nguyên nhân ǵ? Sách viết tiếp: “Khảo kỳ nguyên nhân, cái do thử
kinh ngũ chủng nguyên dịch, hỗ hữu tường
lược, xuất nhập thậm cự” (xét đến
nguyên nhân là do năm bản dịch gốc của kinh này, có
bản chi tiết, có bản đại lược, sai biệt
quá lớn), phải biết nguyên nhân là như vậy. Năm
bản dịch gốc được nói đến ở đây
hiện thời được bảo lưu trong Đại
Tạng Kinh, kinh Vô Lượng Thọ có năm bản dịch.
Theo Dịch Kinh Mục Lục, từ triều Hán tới
triều Tống, có mười hai bản dịch, quá nhiều,
rốt cuộc nên tuân theo bản nào? Trong các bản dịch
này, sai biệt rất lớn, ở đây, cụ Hoàng nêu một
ví dụ, “lệ như Di
Đà đại nguyện” (chẳng hạn như đại
nguyện của Phật Di Đà). Chúng ta thường nói bốn
mươi tám nguyện th́ bốn mươi tám nguyện
là dựa theo bản dịch đời Ngụy và đời
Đường, hai bản này chép bốn mươi tám nguyện.
Trong bản dịch đời Hán và Ngô, Ngô [ở đây] là
nhà Đông Ngô thời Tam Quốc, do Chi Khiêm phiên dịch, th́
là hai mươi bốn nguyện. Trong bản dịch đời
Tống là ba mươi sáu nguyện, sai biệt quá lớn!
Nếu chỉ có một bản gốc bằng tiếng Phạn,
bất luận là ai dịch, đương nhiên văn tự
sẽ không giống nhau, nhưng ư nghĩa nhất định
như nhau, chẳng hạn các điều trong lời nguyện
nhất định sẽ giống nhau, chẳng thể nào
có sai biệt lớn như vậy. Do đó, cổ nhân phán
đoán: Thích Ca Mâu Ni Phật thuở c̣n tại thế đă
nhiều lần tuyên giảng kinh này, nên mới có t́nh h́nh này
xuất hiện. Đức Thế Tôn giảng kinh từ
trước tới nay, chưa hề giảng kinh nào hai lần,
chỉ giảng một lần, chẳng giảng hai lần,
chỉ riêng kinh Vô Lượng Thọ được tuyên
giảng nhiều lần, chứng tỏ tầm quan trọng
của bộ kinh này và tầm quan trọng của pháp môn này.
Tổ sư đại đức đă chỉ ra như vậy!
“Toại sử sơ tâm học giả,
chuyên tŕ nhất dịch, nan minh thâm chỉ, biến độc
ngũ chủng, hựu cảm gian nan” (Khiến cho người
mới học chuyên tŕ một bản dịch sẽ khó thấu
hiểu tông chỉ sâu xa; nếu đọc trọn năm
bản dịch, sẽ cảm thấy khó khăn). Thật
khó! Quư vị thấy vào đời Tống, cư sĩ Vương
Long Thư là một vị đại đức lỗi lạc,
nhưng không thể đọc cả năm bản dịch
gốc, chỉ được thấy bốn bản. V́ thế,
bản hội tập của ông căn cứ trên bốn bản
dịch gốc. Bản dịch đời Đường
chính là hội Vô Lượng Thọ trong kinh Đại Bảo
Tích, ông Vương Long Thư chưa được đọc
bản dịch này! Trong bản này, có rất nhiều khai thị
tuyệt diệu, mà bốn bản dịch kia không nhắc
tới. V́ thế, bản hội tập này
chưa hoàn mỹ. Quư vị hăy suy nghĩ: Có địa vị,
giàu có như Vương Long Thư, mà c̣n chẳng có cách nào sưu
tập hoàn toàn năm bản dịch gốc, vẫn thiếu
mất một loại, t́m không ra! Xưa kia, t́m một bản
kinh là chuyện hết sức khó khăn! V́ thế, cổ
đại đức dạy chúng ta: Kinh điển phải
bảo tồn rất cẩn thận, khi đọc phải
cẩn thận. Trên kinh bổn, quyết định không thể
đánh dấu hay viết chữ, chớ nên gây hư hại.
V́ sao? Nhằm lưu truyền cho hậu thế, để
người đời sau có kinh để đọc. Không
như hiện thời, thuật ấn
loát phát triển, thuận tiện như thế. V́ lẽ
đó, có người hỏi tôi: “Chúng con có thể viết
chữ hay đánh dấu trên cuốn kinh được hay
không?” Tôi bảo: “Được chứ!” V́ sao? Quá nhiều!
Chẳng bị thất truyền! Trước kia quá ít, sợ
bị thất truyền. Từ đời Tống trở
về trước, kinh điển toàn là chép bằng tay, kỹ
thuật ấn loát mới được phát minh vào đời
Tống, nhưng dùng bản khắc gỗ để in, suy
cho cùng vẫn là hữu hạn, hết sức hữu hạn.
Ấn loát phát triển cũng chỉ trong năm
mươi năm gần đây, chứ năm mươi
năm trước đó, sắp chữ đúc bằng kim
loại vẫn khá phiền phức. Hiện thời quá thuận
tiện, chúng ta phải hiểu điều này. Đối
với bản in hiện thời, nếu quư vị cảm
thấy chỗ nào rất quan trọng, có thể đánh dấu,
có thể gạch một vạch đỏ, như Hoằng
Nhất đại sư đọc sách, dùng các màu khác nhau để
đánh dấu; kinh bổn nhiều, có thể làm theo cách này!
“Ư thị, đa xả thử
kinh, nhi chuyên công A Di Đà kinh hỹ” (do vậy, đa số
bỏ kinh này để dốc sức nơi kinh A Di Đà).
Đây là lư do v́ sao từ xưa tới nay, ít người giảng
kinh này, người chú giải kinh này cũng ít, nhưng
đối với kinh A Di Đà, chú giải đông, giảng
giải nhiều. Do vậy, Tịnh Tông gần như coi
kinh A Di Đà là bộ kinh quan trọng nhất. “Thanh sơ, Bành Thiệu Thăng
cư sĩ viết” (đầu đời Thanh, cư sĩ
Bành Thiệu Thăng nói), Bành Thiệu Thăng là Bành Tế Thanh,
“thử kinh xiển
dương giả thiểu, thật dĩ vô thiện bổn
cố” (kinh này ít người xiển dương, thật
ra là v́ chưa có bản hoàn thiện), lời này rất hợp
lư! Chưa có bản nào tận thiện! Quư vị nh́n vào năm
bản dịch gốc sẽ biết liền! “Thành tai thị ngôn! Thị
dĩ, Tống Vương Nhật Hưu, Thanh Bành Thiệu
Thăng, Ngụy Thừa Quán đẳng đại cư
sĩ, quân vị hoằng dương thử kinh, tiên hậu
nhi hữu hội bổn dữ tiết bổn chi tác” (Lời
ấy đúng thay! Do vậy, các vị đại cư sĩ
như ông Vương Nhật Hưu đời Tống, Bành
Thiệu Thăng và Ngụy Thừa Quán đời Thanh, v́
hoằng dương kinh này mà trước sau đă có các bản
hội tập và bản trích lục, phân chia chương đoạn).
Đến phần sau, sẽ giới thiệu tỉ mỉ
[chuyện này]. Đời Tống, cư sĩ Vương Long
Thư, Vương Nhật Hưu là Vương Long Thư,
từng viết cuốn Long Thư Tịnh Độ Văn.
Long Thư là địa danh, cũng chính là Thư Thành ở
tỉnh An Huy quê tôi, cách nơi tôi sanh ra rất gần. Cuốn
Tịnh Độ Văn của ông Vương viết hết
sức hay, nhiều người do đọc cuốn sách này
mà tu Tịnh Độ, tiếp dẫn rất nhiều
người. Ngụy Thừa Quán là Ngụy Mặc Thâm, là người
thuộc niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh. Những vị này đều
là đại đức cư sĩ, Bành Thiệu Thăng sống
vào thời Càn Long. Vương cư sĩ và Ngụy cư
sĩ đều có bản hội tập kinh Vô Lượng
Thọ, họ soạn bản hội tập, c̣n Bành Thiệu
Thăng soạn tiết bổn, [tức là] ông ta chỉ lấy
một bản, tức bản dịch của ngài Khang
Tăng Khải, đem chỉnh lư, san đính[3] một lần nữa. Nay chúng ta nói “san đính” tức là gạt bỏ
những phần khó hiểu, chẳng dễ đọc, tạo
thành bản trích lược, trở thành dễ đọc hơn.
V́ thế mới có một tiết bổn và hai loại bản
hội tập.
Tiếp đó,
sách giới thiệu, “Tống
đại, đại cư sĩ Vương Nhật
Hưu, tằng soạn Long Thư Tịnh Độ Văn,
tứ hải xưng dự, truyền tụng chí kim” (đời
Tống, đại cư sĩ Vương Nhật Hưu
từng viết Long Thư Tịnh Độ Văn, được
bốn biển khen ngợi, truyền tụng đến
nay). Các đồng học tu Tịnh Độ, h́nh như
rất ít ai chưa đọc Long Thư Tịnh Độ
văn. Khi chúng tôi mới học Phật, cũng hết sức
ưa thích bộ sách này. Viết hay lắm, có thể coi như
sách để học Quốc Văn. “Vương thị lâm chung, đoan lập văng sanh”
(Họ Vương lúc lâm chung, đứng thẳng văng
sanh), cư sĩ Vương Long Thư đứng văng sanh,
biết trước lúc mất, chẳng ngă bệnh. Trong Cư
Sĩ Truyện, trong Đại Tạng Kinh có bộ Cư Sĩ
Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, đều
có ghi chép. “Khả chứng
cư sĩ thật vi ngă quốc Tịnh Tông giải hạnh
câu ưu, thù thắng hy hữu chi tại gia đại
đức” (Đủ chứng tỏ Vương cư
sĩ là bậc tại gia đại đức thù thắng
hiếm có, hạnh lẫn giải đều tốt đẹp
trong Tịnh Tông nước ta). Chúng ta thấy ông ta văng sanh,
cách ông ta biểu diễn, chúng ta liền biết ông ta văng
sanh chẳng giả chút nào, đứng mất. “Vương thị thâm khái bảo
điển chi trần phong, ư thị năi hội tập Vô
Lượng Thọ kinh, Hán, Ngụy, Ngô, Tống tứ chủng
nguyên dịch, lánh thành nhất bổn, danh vi Đại A Di
Đà Kinh” (Họ Vương tiếc nuối sâu xa bảo
điển bị phủ bụi, bèn hội tập bốn
bản dịch gốc các đời Hán, Ngụy, Ngô, Tống,
tạo thành một bản riêng, đặt tên là Đại
A Di Đà Kinh). Trong Long Tạng (Càn Long Đại Tạng
Kinh) có bản này, h́nh như Nhật Bản Đại Chánh
Tạng[4] cũng có, Đại Chánh Tạng cũng
thu nhập bản này. Có thể đưa vào Đại Tạng
Kinh tức là bản này được lịch đại
cao tăng đại đức công nhận, nên mới có
thể “nhập Tạng” (đưa vào Đại Tạng
Kinh). V́ lẽ đó, Đại Tạng Kinh là tiêu chuẩn thật
sự. Nếu chúng ta muốn học kinh điển, nhưng
kinh điển ngụy tạo rất nhiều, rốt cuộc
kinh nào là thật, bộ kinh nào đáng tin cậy? Vào thời
cổ, khi quư vị xem Đại Tạng, hễ kinh nào có
trong Mục Lục của Đại Tạng sẽ là đáng
tin cậy, kinh nào không có, chẳng đáng tin cậy! Đây
là lập một tiêu chuẩn cho người đời
sau. Nhưng tốt nhất là nếu quư vị có được
một bản, đối chiếu với Đại Tạng
Kinh [thấy có bản kinh ấy] sẽ càng yên tâm. Quư vị
thấy ông Vương chỉ dùng bốn bản dịch gốc
thuộc các đời Hán, Ngụy, Ngô, Tống, thiếu bản
dịch đời Đường, chỉ có bốn bản!
“Vương bổn xuất thế,
hải nội xưng tiện, tùng lâm phụng vi khóa bổn”
(bản của ông Vương ra đời được
trong nước khen là tiện lợi, chốn tùng lâm dùng làm
kinh nhật tụng). “Tùng lâm”
là Phật môn đạo tràng, nhà Phật gọi là tùng lâm, c̣n
hiện tại th́ sao? Hiện thời là đại học.
Nói thật ra, tùng lâm là đại học Phật giáo, có chế
độ chánh thức, được chế độ
hóa. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh giáo học, giống
như trường tư thục do tư nhân quản lư,
không có chế độ, giống như thuở Khổng lăo
phu tử c̣n tại thế dạy học, không có trường
học nào theo hệ thống, quy chế chánh quy, không có! Tại
Trung Quốc, đến thời Tùy - Đường, [trường
học] mới chính thức đi vào khuôn khổ. V́ thế,
đây là một điểm đặc sắc của Phật
giáo Trung Quốc. Thuở đó, thầy Phương bảo
tôi: “Tùng lâm là một sáng kiến
mang tính cách mạng của Phật giáo Trung Quốc, chính thức biến tu viện thành trường
học”. Người đứng
đầu tùng lâm được gọi là Chủ Tịch,
c̣n gọi là Phương Trượng Trụ Tŕ, đó là
ǵ? Hiệu Trưởng! [Trụ Tŕ] là chức vị Hiệu
Trưởng. Thủ Tọa Ḥa Thượng là Giáo Vụ Trưởng.
Duy Na là Huấn Đạo Trưởng. Giám Viện là Tổng
Vụ Trưởng. Phân công những người chịu
trách nhiệm hoàn toàn giống như cách tổ chức của
một trường đại học hiện thời; danh
xưng khác nhau, nhưng trên thực tế, Duy Na đúng là Huấn Đạo Trưởng, [phụ
trách] giáo huấn, chỉ đạo. Điện, đường
là pḥng học, “chia ra nơi chốn để giảng kinh”
(phân ṭa giảng kinh). Quư vị thích học khoa mục nào, sẽ
có thầy chỉ dạy, có giảng đường nhất
định, giống như trong nhà trường. V́ vậy,
quư vị phải hiểu Phật giáo truyền tới Trung
Quốc là giáo dục, chẳng phải là tôn giáo, măi cho tới
niên hiệu Càn Long nhà Thanh vẫn chưa bị biến chất,
luôn là giáo dục. Tùng lâm là đại học, [ngoài ra] c̣n có
những ngôi chùa nhỏ. Chùa nhỏ là trường chuyên
khoa, chỉ học một thứ. Tịnh Tông đạo
tràng tu tập năm kinh Tịnh Độ, chẳng có “phân
ṭa giảng kinh” (chia thành nhiều pháp môn để giảng
kinh chuyên biệt), là trường chuyên khoa chuyên dốc sức
vào một môn, hoặc là cũng học các kinh luận có liên
quan đến môn này. T́nh h́nh là như vậy đó.
Hiện
thời Phật giáo suy vi, do đâu mà suy? Vứt bỏ giáo
học. Sau khi vứt bỏ giáo học, kinh sám Phật sự
trở thành hưng vượng, biến Phật giáo thành
tôn giáo, thật sự trở thành tôn giáo, chúng ta cũng chẳng
thể không thừa nhận, nó quả thật biến thành
tôn giáo, đă quên mất gốc, Phật giáo vốn chẳng
phải là tôn giáo! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế,
quư vị kiểm trong kinh điển, đức Phật chẳng
làm Phật sự một ngày nào. Nếu làm Phật sự một
bữa nào, kinh điển phải ghi chép tường tận,
nhưng chẳng thấy! Trong Đại Tạng Kinh có nhiều tài liệu về kinh sám, Phật
sự. [Những thứ ấy] do người đời
sau, tức các vị tổ sư đại đức
đời sau biên soạn, chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật
[nói ra]. V́ vậy, chẳng thể không biết v́ sao Phật
giáo trở thành nông nỗi này, suy vi đến t́nh trạng
này, nhất định phải hiểu rơ ràng. Tiên sinh Phương
Đông Mỹ đă nhiều lần nhắc nhở tôi:
“Phật giáo Trung Quốc muốn
phục hưng, nhất định phải thực hiện
bằng cách khôi phục chế độ tùng lâm”. Đó
chính là mở trường đại học, phải thực
hiện giáo dục. Vào thời đầu Dân Quốc, có mấy
vị [đă làm chuyện này], nhưng thời gian rất ngắn,
đều chẳng c̣n nữa! H́nh như có một vị
pháp sư mở Hoa Nghiêm Đại Học, pháp sư Thái Hư
mở Phật học viện tại Hạ Môn. Pháp sư Viên
Anh mở Lăng Nghiêm Chuyên Tông Học Viện tại Thượng
Hải. Có mấy vị làm, nhưng thời gian cũng
không dài, sau này đều chẳng c̣n nữa. Pháp sư Đế
Nhàn giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, suốt đời
giảng kinh, dạy học. Ngài thuộc tông Thiên Thai, đào
tạo không ít nhân tài. Ở Mỹ, tôi c̣n gặp môn hạ của
Ngài. Hội dịch, hội tập là chuyện có lư, ông Vương
Long Thư hội tập đầu tiên, được tùng
lâm tôn trọng, dùng bản ấy làm kinh nhật tụng. “Ngă quốc Long Tạng” (Long Tạng
nước ta) chính là Đại Tạng kinh được
biên tập dưới thời vua Càn Long, “cập Nhật Bản Đại Chánh Tạng diệc
quân thái nhập Vương bổn” (và Đại Chánh Tạng của Nhật Bản cũng đều
chọn bản của ông Vương để nhập tạng),
dùng bản của ông Vương Long Thư, tức là bản
hội tập của ông Vương Nhật Hưu.
“Liên Tŕ đại sư viết”
(Liên Tŕ đại sư nói). Liên Tŕ đại sư sống
vào cuối đời Minh, lúc tại thế, Ngài đă phục
hưng Tịnh Độ Tông, hết sức khó có! Đạo tràng của Ngài ở Hàng
Châu. Ngài nói: “Vương thị
sở hội, giảo chi ngũ dịch, giản dị
minh hiển, lưu thông kim thế, lợi ích thậm đại”
(bản hội tập của họ Vương, so với
năm bản dịch gốc, đơn giản, dễ hiểu,
rơ ràng, được lưu thông trong đời hiện tại,
lợi ích rất lớn). Đây là lời tán thán của vị
tổ sư đời thứ tám của
Tịnh Độ Tông là Liên Tŕ đại sư đối
với ông Vương Long Thư. “Hựu viết: Dĩ Vương bổn thế sở
thông hành, nhân tập kiến
cố” (Lại nói: Do bản của ông Vương được
lưu hành rộng răi trong cơi đời, người ta quen
thấy), do được lưu thông rất rộng, người
đọc tụng rất nhiều. “Cố ư sở trước Di Đà Sớ Sao trung,
phàm dẫn chứng Vô Lượng Thọ Kinh chi xứ, đa
thủ Vương văn, gián thái nguyên dịch” (V́ thế,
đối với tác phẩm Di Đà Sớ Sao của tôi,
hễ chỗ nào dẫn chứng kinh Vô Lượng Thọ,
phần lớn trích theo bản của ông Vương, chỉ
đôi khi dẫn theo bản dịch gốc). H́nh như tôi đă
giảng A Di Đà Kinh Sớ Sao đôi ba lần, quả thật
[là một tác phẩm] hết sức hay! Do trong thời đại
đó, chúng ta nh́n vào nội dung sách Sớ Sao, giống
như chúng ta nh́n vào toa thuốc, sẽ biết những người
ấy đang bị bệnh ǵ. Trong thời đại đó,
trên lănh thổ Trung Quốc, Phật giáo Thiền Tông hết
sức hưng thịnh, nhiều kẻ coi rẻ, xem thường
Tịnh Độ. Do vậy, trong Sớ Sao, Liên Tŕ đại
sư đă dùng ǵ để chú giải kinh A Di Đà? Dùng Hoa
Nghiêm, nâng kinh Di Đà lên ngang tầm vóc kinh Hoa Nghiêm, khiến
mọi người tôn trọng! Rất tuyệt vời! Quả
thật lời của cư sĩ Bành Tế Thanh đă nói,
trong phần sau cũng có dẫn chứng lời này, có lư lắm!
Cư sĩ Bành Tế Thanh nói kinh Vô Lượng Thọ là
Hoa Nghiêm trung bổn. Nói cách khác, kinh Hoa Nghiêm là Đại Vô
Lượng Thọ Kinh. Hoặc nói cách khác, kinh A Di Đà là
Tiểu Hoa Nghiêm Kinh. Kinh Hoa Nghiêm, kinh Vô Lượng Thọ,
kinh Di Đà một mà ba, ba mà một, Liên Tŕ đại
sư đề xướng điều này, được
các bậc cao tăng đại đức trong Phật môn công
nhận, tán đồng, Tịnh Độ lại được
hưng vượng, nên Ngài được xưng tụng
là tổ sư đời thứ tám.
Tổ
sư của Tịnh Độ Tông không giống như
trong các tông phái khác, các tông phái là khác là “đại đại tương truyền”, [tức
là] từ một đời này truyền lại cho đời
sau, trong Tịnh Độ Tông không có [thể lệ ấy].
Tịnh Độ Tông chẳng phải là “đại đại tương truyền”, mà là
sau khi vị đại đức ấy đă văng sanh, người
đời sau khẳng định vị ấy đối
với Tịnh Độ Tông có cống hiến đặc
thù, bèn tôn vị ấy làm tổ sư. V́ thế, tổ sư
Tịnh Độ Tông là do dân tuyển (bầu chọn), chẳng
phải đời này truyền sang
đời kia, mà là dân tuyển. Giống như thời cận
đại, Ấn Quang đại sư đối với Tịnh
Độ Tông có cống hiến rất lớn, mọi
người công nhận Ngài xứng đáng là vị tổ
sư đời thứ mười ba. Nếu là tổ
tổ tương truyền (tổ sư này truyền cho tổ
sư kia), phải biết là sẽ có tới sáu bảy mươi
đời, nhưng Tịnh Độ Tông mới có mười
ba đời. Nếu như đời này không có người
như vậy, sẽ không ai được chọn. Thật
sự có cống hiến đặc thù đối với sự
tu tŕ và hoằng dương Tịnh Tông, người ấy
sẽ được người đời sau tôn xưng
là “nhất đại tổ
sư” (tổ sư trong một đời). Tổ sư
[trong Tịnh Tông] do đó mà có, do dân tuyển. [Chư Tổ
của] Tịnh Tông được gọi là “đại
sư” cũng là do đặc biệt tôn trọng, bởi lẽ,
đây cũng là một kiến thức thông thường
quư vị cần biết. Chữ “đại sư” chẳng
thể tùy tiện xưng hô! Danh xưng “đại sư”
trong Phật môn chuyên dùng để gọi Thích Ca Mâu Ni. Quư vị
thấy đó: Trước kia, thầy của hoàng đế
gọi là Quốc Sư; người phiên dịch kinh điển
được gọi là Tam Tạng Pháp Sư, bậc đại
đức trong Thiền môn gọi là Thiền Sư, vị
nào chuyên dốc sức nơi Luật th́ gọi là Luật Sư,
nghiên cứu luận điển thành công bèn gọi là Luận
Sư, không ai xưng là đại sư! Chỉ có Tịnh
Độ tông xưng là đại sư, v́ sao? Các vị ấy
chẳng khác ǵ Phật, có thể chỉ dạy chúng sanh niệm
Phật văng sanh, hễ văng sanh bèn thành Phật. Quư vị xem:
Phật độ chúng sanh chẳng phải [chỉ dạy,
giúp họ] thành Phật đó sao? Những vị đại
đức độ chúng sanh dùng pháp môn này, cũng dạy
họ thành Phật trong một đời, có khác ǵ Phật?
[Cho nên] đều gọi là đại sư. V́ thế, chỉ
có tổ sư Tịnh Tông được gọi là đại
sư, phải biết kiến thức thông thường này!
Nay chúng ta là kẻ tầm thường mà xưng là đại
sư tức là quá lố, không thể được!
Tiếp
theo đó là: “Hựu U Khê đại
sư cánh hữu thịnh yên” (hơn nữa, U Khê đại
sư càng dùng rộng răi hơn), đây
là một vị cùng thời đại với Liên Tŕ đại
sư, cũng là một vị đại đức trong Tịnh
Tông. Ngài có trước tác bộ Di Đà Viên Trung Sao. Khi
chúng tôi mới vừa tiếp xúc Tịnh Tông, thầy
có trao cho tôi ba bản chú giải, ba bản chú giải ấy
là ba tác phẩm chú giải kinh Di Đà có uy tín nhất, người
tu Tịnh Độ chẳng thể không đọc. Thứ
nhất là A Di Đà Kinh Sớ Sao của Liên Tŕ đại
sư, thứ hai là Yếu Giải của Ngẫu Ích đại
sư trong bộ Tịnh Độ Thập Yếu; thứ
ba là Viên Trung Sao của U Khê đại sư. Ba bản chú
giải này là tác phẩm chú giải kinh Di Đà có uy tín nhất.
Trong Viên Trung Sao, hễ trích dẫn kinh văn của kinh Vô
Lượng Thọ bèn hoàn toàn dùng bản hội tập của
ông Vương Long Thư. Trong bộ Sớ Sao của Liên
Tŕ đại sư, đại khái là trích dẫn bản hội
tập của ông Vương Long Thư hơn phân nửa một
chút, phần c̣n lại vẫn trích dẫn từ các bản
dịch gốc. “Cận đại,
Ấn Quang đại sư ư sở soạn Trùng Khắc
Viên Trung Sao Tự trung, diệc tán Vương bổn
văn nghĩa tường tất, cử thế lưu
thông” (gần đây, trong bài Tựa Tái Bản Bộ Viên
Trung Sao do Ấn Quang đại sư viết, Ngài cũng
khen ngợi bản của ông Vương văn lẫn nghĩa
tường tận, đầy đủ, lưu thông rộng
răi trên cơi đời). Cận đại, trong Ấn Quang Văn
Sao có bài này, đây là một thiên văn chương của
Ngài. Trong bài Trùng Khắc A Di Đà Kinh Viên Trung Sao Tự, Ngài
đă tán thán như vậy, chứng tỏ việc hội
tập là chính xác, là chuyện phải có người đứng
ra làm. Vậy mà trong thời cận đại có người
phê b́nh hội tập là sai lầm, lời này nói chẳng xuôi
tai!
Có rất
nhiều người đến hỏi tôi, đối với
bản hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên
Cư, ở trong nước lẫn Đài Loan đều có
những vị đại đức trong Phật môn phản
đối “đừng nên làm chuyện này”, [họ đem
chuyện ấy] tới hỏi tôi. Tôi nói: Nếu chúng ta chẳng
thừa nhận việc hội tập, cho là không đúng pháp,
sẽ có rất nhiều vấn đề! Hiện thời,
trong nhà chùa, khóa tụng sáng tối chẳng phải do Thích
Ca Mâu Ni Phật đă nói, kinh văn và nghi quy trong ấy đều
là hội tập, cũng chẳng thể dùng những khóa bản
ấy! B́nh thường, quư vị làm Phật sự, như
Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, Đại Bi Sám, Diệm Khẩu,
Thủy Lục, những bản ấy toàn là hội tập,
thảy đều chẳng thể dùng. Khóa tụng sáng tối
trong nhà chùa phải đọc nguyên văn mới đúng, vậy
th́ rất nhiều thứ trong nhà chùa đều trở
thành có vấn đề, đều chẳng đúng pháp! Quư
vị thấy trong Phật môn có bao nhiêu thứ là hội tập
của tổ sư đại đức từ xưa đến
nay. V́ thế, phải hiểu đạo lư này, chẳng thể
không nói theo lư. Sau khi quư vị đều hiểu rơ, sẽ
biết hội tập là cần thiết, nhất là thuở
ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy chúng ta: “Y pháp, bất y nhân; y nghĩa, bất
y ngữ; y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa;
y trí, bất y thức”. Hơn nữa, kinh Đại Thừa
thường dạy: “Phật
vô hữu định pháp khả thuyết” (Phật không
có pháp nhất định nào để nói), “pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”
(pháp c̣n nên bỏ, huống ǵ phi pháp), nói rành mạch, triệt
để như vậy! V́ thế, chúng ta nhất định
phải hiểu pháp do đâu mà có? Do con người mà
hưng khởi, người ta mắc bệnh ǵ, đức
Phật bèn kê toa thuốc đó; người không có bệnh,
sẽ chẳng có toa thuốc! Đó là chữa bệnh. Do vậy,
nhất định phải hiểu đạo lư này. Đây
là nói rơ hội tập là chuyện phải nên làm!
Tiếp đó
là nói đến những vấn đề trong hai bản hội
tập: “Vương thị hội
kinh, tuy đại hữu công ư Tịnh Tông, đản
sở hội chi bổn phả đa suyễn ngộ” (Ông
Vương hội tập kinh, tuy có công lớn đối
với Tịnh Tông, nhưng trong bản hội tập có khá
nhiều sai lầm), trong ấy phạm sai lầm, đó là
sự thật! Cho nên cũng phải nhận biết rơ ràng
[những khuyết điểm ấy]! Cụ Hoàng nêu tỷ
dụ: “Bạch khuê chi hà, hiền
giả tích chi” (bạch khuê có vết, người hiền
tiếc nuối), bạch khuê[5] là ngọc,
ngọc có tỳ vết, tỷ dụ bản hội tập
của cư sĩ Vương Long Thư [có khuyết điểm],
khiến người hiền tiếc nuối! “Liên Tŕ đại sư vị kỳ:
Sao tiền trước hậu, khử thủ vị tận”
(Liên Tŕ đại sư nói: “Trích dẫn kinh văn trong phần
trước, ghép lời văn do ḿnh sáng tác vào phần sau,
lấy bỏ chẳng trọn hết”), điều này sẽ
được giải thích trong phần sau. “Bành Thiệu Thăng cư sĩ xích chi vi: Lăng
loạn quai suyễn, bất hợp viên chỉ” (Cư sĩ
Bành Thiệu Thăng chê trách: “Rối ren, sai sót, chẳng hợp
ư chỉ viên dung”). Những lời phê b́nh này cũng đều
có căn cứ. Nếu như chúng ta đem năm bản dịch
gốc đối chiếu, quư vị sẽ hiểu ngay. Hiện
thời có mấy vị cư sĩ [đă làm chuyện so sánh
này], tôi thấy họ đă đối chiếu sự bất
đồng giữa hai bản hội tập với năm
bản dịch gốc, làm kỹ lắm, rất tốn công.
Sau khi quư vị đă xem xong, mới biết bản hội
tập này của Hạ lăo cư sĩ hay lắm, hội tập
quá khéo! Đúng là hay hơn mấy bản hội tập trước
đó! Do vậy, hiện thời có tổng cộng chín bản,
gồm: Ba bản hội tập, một bản tiết lục,
năm bản dịch gốc, tôi in cả chín bản này thành
một cuốn. Khi ấy, tôi giảng bản hội tập
của Hạ lăo cư sĩ ở nước ngoài, sợ có
kẻ đến kiếm chuyện, cho nên tôi in chung cả
chín loại để quư vị tự xem. Kẻ nào thắc
mắc, có nghi vấn, tôi đưa sách cho kẻ ấy xem,
“ông hăy tự xem đi!”, tôi chẳng cần phải trả
lời. Chín bản đều có, nhưng đều đọc
hết th́ thật là khó! Một bản hội tập hay
như thế, đức Thế Tôn đă nói: Đến
lúc pháp diệt tận, hết thảy các kinh đều chẳng
c̣n nữa, cuối cùng chỉ c̣n lưu lại ḿnh kinh Vô
Lượng Thọ này, nhưng là bản nào của kinh Vô
Lượng Thọ? Chắc chắn là bản hội tập
của cụ Hạ Liên Cư, chứ không phải là bản
dịch gốc. Chúng ta có thể khẳng định điều
này! Bản hội tập này quá hay, chúng ta cần phải
nhận biết điều này th́ mới chẳng đến
nỗi hoài nghi kinh này! Kẻ phê b́nh rất nhiều, sự
tu học, thâm nhập kinh giáo của họ đă đạt
tới bản lănh như Vương Long Thư, Ngụy Mặc
Thâm, và Hạ Liên Cư hay chưa? Nếu chưa đạt
tới tŕnh độ ấy, lẽ nào có thể tùy tiện
phê b́nh? Cá nhân quư vị phê b́nh, chính quư vị tạo nghiệp
phải tự gánh vác. Nếu quư vị ảnh hưởng
tới người khác, khiến người khác nẩy
sanh hoài nghi đối với bản này, không học tập
nữa, lỗi lầm lớn lắm! Quư vị đoạn
Pháp Thân huệ mạng của người khác, có phải
gánh trách nhiệm nhân quả hay chăng? Chắc chắn là
phải! Chúng ta học kinh giáo, chẳng thể không biết
điều này! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng
ta học tập tới đây.
Tập 06
“Vương thị hội kinh, tuy đại hữu
công ư Tịnh Tông, đản sở hội chi bổn phả
đa suyễn ngộ. Bạch khuê chi hà, hiền giả
tích chi. Liên Tŕ đại sư vị kỳ: Sao tiền trước
hậu, khử thủ vị tận. Bành Thiệu Thăng
cư sĩ xích chi vi: Lăng loạn quai suyễn, bất hợp
viên chỉ” (Họ
Vương hội tập kinh, tuy có công lớn đối
với Tịnh Tông, nhưng bản hội tập của ông
ta có lắm sai lầm. Bạch khuê có vết, người hiền
tiếc nuối. Liên Tŕ đại sư bảo: “Sao chép kinh
văn trong phần trước, ghép thêm lời văn của
chính ḿnh sáng tác vào sau đó, lấy bỏ chưa trọn hết”.
Cư sĩ Bành Thiệu Thăng chê trách: “Rối ren, sai lạc,
chẳng hợp ư chỉ viên dung”). Chúng ta xem trước chỗ
này. Trong phần trước, tôi đă giới thiệu các
phiên bản kinh Vô Lượng Thọ hiện đang được
lưu thông, ngoài năm bản dịch gốc ra, c̣n có bốn
bản nữa: Ba bản là bản hội tập, một bản
là bản tiết lục. Nhân tiện, tôi giới thiệu ở
đây. “Vương thị”
(họ Vương) là Vương Long Thư, hay Vương
Nhật Hưu, hội tập kinh Vô Lượng Thọ sớm
nhất. Có thể thấy là từ rất sớm đă có người
chú ư tới vấn đề này. Các phiên bản nhiều lắm,
mà nội dung sai biệt rất lớn. Nếu bảo năm
bản đều cùng đọc, quả thật rất phiền;
đọc một loại, sẽ chẳng thấy những
điều được nói trong bốn bản kia, trong bốn
bản kia có rất nhiều kinh văn không có trong bản này,
rất đáng tiếc! V́ thế, đó là một nhân tố
quan trọng khiến cho những bản này được
lưu thông rất ít. Cư sĩ Vương Long Thư là người
đời Tống, trong phần trên đă giới thiệu:
Ông ta trước tác rất phong phú, niệm Phật thật
sự có công phu, khi văng sanh là đứng mất. Bộ Tịnh
Độ Văn của ông ta vô cùng hay, cũng có thể dùng
để học Quốc Văn. Trong phần trước,
tôi đă từng giới thiệu với quư vị, Trúc Song
Tùy Bút của Liên Tŕ đại sư, Linh Phong Tông Luận của
Ngẫu Ích đại sư, và Tịnh Độ Văn của
cư sĩ Vương Long Thư cũng hết sức hay,
văn tự hết sức khá, đều là những tác phẩm
văn chương hay của các bậc đại đức
trong Tịnh Tông. Chúng ta học văn chương Văn Ngôn,
coi những tác phẩm ấy như sách để học Quốc
Văn, rất tốt!
Sau khi bản
hội tập của ông ta ra đời, được
lưu thông rất rộng. Quư vị thấy Đại Chánh
Tạng của Nhật Bản và Long Tạng được
biên tập dưới đời vua Càn Long đều nhập
tạng bản này. Có thể đưa vào Đại Tạng
Kinh tức là được các vị đại đức
thuở ấy chấp nhận. Thế nhưng bản của
ông ta vẫn có sai lầm, “suyễn
ngộ” (舛誤) là sai lầm,
c̣n có những sai sót. “Bạch
khuê chi hà, hiền giả tích chi” (bạch khuê có vết, người
hiền xót xa), hai câu này thể hiện ư tiếc hận: Đáng
tiếc là ông ta làm chưa viên măn, c̣n có khuyết điểm!
Liên Tŕ đại sư cũng hết sức bội phục
ông Vương. Trong bộ Di Đà Kinh Sớ Sao, đây là một
tác phẩm rất to lớn, kinh văn kinh Vô Lượng
Thọ được trích dẫn trong ấy, quá nửa là
trích từ bản hội tập của cư sĩ Long
Thư, đây cũng là khẳng định [giá trị] của
bản hội tập ấy. Đương nhiên, bản ấy
chẳng thể tận thiện, tận mỹ, nên Liên Tŕ
đại sư cũng phê b́nh, bảo bản này của họ
Vương “sao chép kinh văn
trong phần trước, ghép phần trước tác của
chính ḿnh vào phần sau, lấy bỏ chưa trọn vẹn”.
Hai câu này trong phần sau đều có giải thích. Bành Thiệu
Thăng có tiết bổn, chẳng phải là hội tập,
chỉ lấy bản của ngài Khang Tăng Khải. Bản
dịch của ngài Khang Tăng Khải cũng chẳng dễ
đọc cho lắm, ông Bành đem chỉnh lư một lần nữa, soạn thành bản mới,
gạt bỏ những chỗ trúc trắc, thiếu trôi chảy,
cho nên bản dịch này đọc lên rất lưu loát,
coi như là một bản kinh hay, nhưng chẳng thể coi
là bản hội tập, mà coi là tiết bổn (bản
rút gọn, trích yếu, có phân chương đoạn). Ông
ta cũng phê b́nh bản hội tập của cư sĩ Long
Thư, bảo là “lăng loạn
quai suyễn, bất hợp viên chỉ” (rối ren sai lầm,
chẳng hợp ư chỉ viên dung), cũng là nói bản hội
tập của ông ta chưa hoàn mỹ. Chẳng thể bảo
ông Vương không có công lao ǵ! Quả thật là công lao
cũng chẳng thể xóa sạch, nhưng chưa phải
là bản hoàn mỹ. Đây là một chuyện rất đáng
tiếc!
Tiếp đó là lời
giải thích của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ: “Kim bút giả” (nay người
viết), nói về người cầm bút viết bản
chú giải này, tức là lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ,
“ngưỡng thừa cổ
đức chư thuyết” (kính vâng theo các nhận định
của cổ đức), nói theo cách hiện thời là “căn
cứ trên cách nói của cổ đại đức”, “thiết kê Vương thị
chi thất” (trộm kể ra những khuyết điểm
của họ Vương), “thiết
kê” (竊計) là theo cách so sánh, cách nghĩ của riêng
tôi, bản hội tập của cư sĩ Long Thư tối
thiểu có ba chỗ sai sót. Thứ nhất là: “Vương thị hội tập,
cẩn cứ tứ chủng, vị cập Đường
dịch. Đường dịch danh Vô Lượng Thọ
Như Lai Hội, xuất tự Đại Bảo Tích Kinh,
năi Bồ Đề Lưu Chí đại sư sở dịch,
đa áo diệu tinh yếu chi văn, vi tha dịch sở vô”
(Bản hội tập của họ Vương chỉ dựa
trên bốn bản dịch, chưa có bản dịch đời
Đường. Bản dịch đời Đường
có tên là Vô Lượng Thọ Như Lai Hội trích từ
kinh Đại Bảo Tích do Bồ Đề Lưu Chí đại
sư dịch, kinh văn có nhiều chỗ uyên áo, huyền
diệu, tinh tường, trọng yếu mà những bản
dịch khác không có). “Tha dịch”
là bốn bản dịch gốc kia, trong ấy không có những
điều [được nói trong bản Đường
dịch]; quả thật cư sĩ Long Thư cả đời
chưa thấy bản Như Lai Hội trong kinh Đại
Bảo Tích. Từ chỗ này, chúng ta mới hiểu vào thời
cổ, có được kinh sách đâu phải dễ! V́
thuở ấy, kinh sách đều vẫn phải chép bằng
tay. V́ thế, trong kinh sách cổ truyền có chữ sai là chuyện
khó tránh. Một bộ kinh phân lượng to như vậy,
khó tránh khỏi chép thiếu, hoặc chép sai một chữ,
hết sức khó tránh chuyện này! Bản này (tức bản
Đường dịch), như lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ đă nói: Có nhiều đoạn văn tự “áo diệu tinh yếu” (sâu xa,
huyền nhiệm, tinh tế, quan trọng) chẳng thấy
có trong bốn bản dịch kia, đương nhiên đây
là điều sai sót. Đây là chỗ chẳng viên măn thứ
nhất, tức là ông Vương chưa đọc trọn
năm bản dịch gốc. Đó là điều thứ
nhất.
Thứ hai, “khử thủ vị tận”
(lấy, bỏ chưa trọn hết). Đây là lời Liên
Tŕ đại sư phê b́nh, chê lăo nhân gia (ông Vương Nhật
Hưu) chọn và bỏ chưa trọn vẹn, tức là nói
“thủ phồn di yếu, cải
thâm vi thiển” (lấy chỗ rườm rà, bỏ chỗ
quan trọng; sửa chỗ sâu thành cạn), ông ta mắc phải
khuyết điểm này! Những chỗ rườm rà đáng
nên tinh giản, ông ta vẫn cứ chép vào [bản hội tập];
những thứ quan trọng bị bỏ sót, v́ sơ ư mà bỏ
sót. Nêu ra thí dụ nhằm chứng tỏ lời [phê phán] này
chẳng phải là nói tùy tiện: “Lệ như Liên Tŕ đại sư sở trách: Như
tam bối văng sanh” (Chẳng hạn như Liên Tŕ đại
sư đă trách: Như trong phần ba bậc văng sanh), trong
đoạn kinh văn này, “Ngụy
dịch giai viết phát Bồ Đề tâm” (bản dịch
đời Ngụy ghi cả ba bậc đều phát Bồ
Đề tâm), chữ “Ngụy”
chỉ [bản dịch của] ngài Khang Tăng Khải; trong
bản dịch của ngài Khang Tăng Khải, ba bậc văng
sanh đều phát Bồ Đề tâm, nhưng trong bản
hội tập của Vương Long Thư, chỉ có bậc
trung là phát Bồ Đề tâm, bậc hạ chẳng phát,
chẳng hề phát Bồ Đề tâm, trong bậc thượng
cũng chẳng nói, không đề cập. “Tắc cao hạ thất thứ, cố vân vị tận”
(tức là thứ bậc cao thấp bị mất, cho nên
bảo là “chưa trọn hết”), đây là nói “khử thủ vị tận”.
Lời Ngài nói có căn cứ, Ngài bảo: “Do thượng lệ khả kiến, thượng
cánh bất ngôn” (Do dựa theo điều này (bậc
trung đă phát Bồ Đề tâm), có thể thấy [bậc
thượng phải phát Bồ Đề tâm], nhưng
[trong bản hội tập] bậc thượng hoàn toàn chẳng
nói [phát Bồ Đề tâm, đó là điều vô lư]), “thượng” là thượng
bối văng sanh, [bản hội tập của ông Vương]
chẳng nói tới phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề
tâm quan trọng lắm! Đây là “di
yếu”, nghĩa là bỏ sót điều quan trọng! Đối
với bậc Hạ, [chánh kinh] cũng nói là phát Bồ
Đề tâm, nhưng ông ta viết là “chẳng phát”, tức là bậc Hạ có thể chẳng
cần phát Bồ Đề tâm, [đó là] “cải thâm vi thiển” (sửa sâu thành cạn). Đây
là những chỗ Liên Tŕ đại sư và Bành cư
sĩ chê trách ông Vương, thật sự có căn cứ,
chẳng phải là nói tùy tiện!
Thứ
ba, “suất ư tăng văn,
nghiễm nhược tự trước” (tùy tiện tăng
thêm văn tự, nghiễm nhiên tự soạn thêm), “suất ư” (率意) là tùy ư, tăng thêm văn tự, giống
như chính ḿnh sáng tác, điều này không thể chấp nhận!
Phiên dịch th́ được! Nếu quư vị dịch từ
tiếng Phạn sang tiếng Hán th́ chấp nhận được,
v́ quư vị phải châm chước dùng câu chữ nào [cho lời
văn găy gọn, dễ hiểu, nhưng không sai ư]! Hội
tập th́ không thể, hội tập nhất định
phải dùng nguyên văn [từ các bản dịch gốc], chẳng
thể thay đổi văn tự, Ấn Quang đại
sư hết sức coi trọng chuyện này. Bởi lẽ,
tùy tiện sửa đổi văn tự, tôi nghĩ dùng câu
chữ theo kiểu này mới hay, tôi bèn sửa; quư vị cho
rằng hành văn theo kiểu kia mới hay, quư vị lại
sửa. Sửa tới, sửa lui, đến cuối cùng
chẳng c̣n cách nào đọc [nguyên dạng] kinh Phật nữa!
Do vậy, phải tôn trọng lời dịch gốc, nhất
định chớ nên sửa đổi. Dẫu nhận thấy
[câu văn hay đoạn văn ấy] có vấn đề,
có thể ghi chú bên cạnh, chẳng thể sửa chữ
của người ta, đây là quy củ. Do vậy, chỗ
này là sơ sót. “Cố Liên Tŕ
đại sư trách viết” (V́ thế, Liên Tŕ đại
sư trách rằng), quở trách ông Vương: “Sao tiền trước hậu,
vị thuận dịch pháp” (sao chép kinh văn trong phần
trước, ghép thêm lời văn của chính ḿnh sáng tác vào
sau đó, chưa tuân thủ cách dịch). Ngay sau đó, cụ
Hoàng giảng rơ: “Cái trách kỳ
sao dẫn kinh văn ư tiền” (ấy là chê trách [ông
Vương] đă sao lục kinh văn trong phần trước),
đó là “sao tiền”, “phục hựu tự trước
cú tự ư hậu” (lại đem những câu chữ
do ḿnh đặt ra, ghép vào phía sau), ghép ư kiến của chính
ḿnh vào sau kinh văn, cũng giống như chính ḿnh dịch
vậy, sai lầm rồi! Phía sau [mỗi đoạn kinh],
nếu có kiến giải, có thể dùng chữ nhỏ ghi chú
bên cạnh, nhất định chẳng ghi lẫn lộn
vào kinh văn. Đây là một điều kỵ húy rất
lớn. Đó gọi là “sao tiền,
trước hậu, vị thuận dịch pháp”. Dịch
kinh có quy củ dịch kinh; ở đây là đă vi phạm
quy củ dịch kinh, ông ta cũng chẳng phải là phiên
dịch, mà là hội tập.
Tiếp đó, cụ
Hoàng giảng: “Cái thị hội
tập, tất tu y cứ nguyên kinh, vạn vạn bất
khả ư nguyên dịch ngoại thiện tăng văn cú”
(Đă là hội tập, cần phải dựa theo nguyên văn
của bản dịch, muôn vàn chẳng thể tự tiện
thêm câu văn [do chính ḿnh đặt ra]). Cư sĩ Long
Thư phạm quy củ này: Anh hội tập, chẳng phải
là phiên dịch! Anh phiên dịch th́ được, chính anh
châm chước nên dùng chữ ǵ, dùng từ ǵ để dịch
ư nghĩa tiếng Phạn này, được phép làm như
thế! Nhưng hội tập th́ không được! Bởi
lẽ, anh chẳng dựa trên nguyên văn bằng tiếng
Phạn, mà dùng bản dịch do người khác đă dịch
sang tiếng Hán. Anh nhất định phải tôn trọng, phải tuân theo nguyên văn, chẳng thể
thay đổi, động chạm chữ nào. Đây là quy
củ hội tập. Vậy th́ cư sĩ Long Thư
đă sửa đổi, sửa có khéo hay không? Sửa thật
khéo! Tuy sửa thật khéo, nhưng đă phá hoại quy củ,
không được rồi! Quư vị chẳng thể phá hoại
quy củ, chẳng thể tạo ra tiền lệ này!
Quư vị đă sửa được, người khác
cũng có thể sửa. Đối với quư vị th́
không có vấn đề ǵ, đối với kinh Phật,
sự tu dưỡng của quư vị đă đạt tới
tiêu chuẩn, công phu và cảnh giới tu tŕ cũng đạt
tới, quư vị có sửa cũng chẳng sao, nhưng hễ
tạo nên tiền lệ này, người đời sau sẽ
như thế nào? Người đời sau tuy chưa có tŕnh
độ như quư vị mà cũng sửa chữa: Cư
sĩ Vương Long Thư đă có thể sửa, lẽ
nào ta chẳng thể sửa? Hễ tiền lệ này được
lập ra, sau này, những tệ đoan sẽ xuất hiện.
Nói thật
ra, [bản hội tập của] Vương Long Thư có
vấn đề, bản của Ngụy Mặc Thâm
cũng có vấn đề. Chúng ta xem kỹ, ông ta sửa có
khéo hay không? Sửa đúng là khéo lắm, nhưng nếu quư
vị nghĩ tới những tác hại về sau, đáng sợ
lắm! Không thể tạo nên tiền lệ này! Chẳng
phải là nói ông ta sửa không hay, mà là nói chẳng thể lập
ra tiền lệ. Phải như thế nào mới trọn
vẹn đôi bề? Tôi vừa mới nói đấy thôi,
dùng chữ nhỏ ghi chú bên cạnh th́ được, cách
này có thể tận thiện tận mỹ. Do vậy, đây
là: “Cố trách Vương thị
vị thuận dịch pháp. Do thượng khả kiến
Vương thị chi thất” (v́ thế, mới trách là
ông Vương chưa tuân theo cách dịch. Do những điều
trên đây, có thể thấy khuyết điểm của họ
Vương). Do ông ta có những chỗ thiếu sót, bản
hội tập này có những chỗ sai sót, “phi thị bất ưng hội tập, nhi tại
ư hội bổn chi đa tỳ dă” (chẳng phải
là không nên hội tập, mà do trong bản hội tập có
nhiều tỳ vết). Đó là tỳ vết. Do có những
tỳ vết, nên chẳng thể gọi là “tận thiện
tận mỹ”. Đây là kiến thức thông thường,
nhưng là một kiến thức thông thường rất
quan trọng: Chúng ta học Phật, cần phải tôn trọng
kinh điển. Chẳng thể tùy tiện sửa đổi
nguyên văn kinh điển, mà đối với chú giải
của cổ đại đức cũng chớ nên tùy tiện
thêm bớt văn tự. Cổ đức có thể chú giải
bộ kinh này, bản chú giải ấy có thể lưu truyền
cho tới hiện thời, nói chung là mấy trăm năm,
trong mấy trăm năm ấy, người đọc tác
phẩm ấy rất nhiều. Quư vị thấy cổ
nhân đều tôn trọng, cớ sao chúng ta có thể tùy ư sửa
đổi văn tự? Đấy là chuyện rất thiếu
đạo đức. Chúng ta có ư kiến, có thể thêm ghi
chú vào bên cạnh, làm như vậy th́ được!
Chúng ta lại
đọc đoạn tiếp theo: “Bành Thiệu Thăng cư sĩ hám ư Vương
bổn chi thất” (cư sĩ Bành Thiệu Thăng tiếc
nuối trước những khuyết điểm trong bản
hội tập của họ Vương). Đây là nói: Rất
đáng tiếc! Cảm thấy bản của ông Vương
là một bản hay, nhưng hết sức đáng tiếc
là có chút tỳ vết này, chưa hoàn mỹ. “Năi thủ Ngụy dịch bổn
nhi san tiết chi” (bèn lấy bản Ngụy dịch mà gạn
lọc, trích lược), ông ta chỉ lấy một bản.
Chẳng thể coi việc làm này của ông ta là hội tập,
do chỉ lấy bản dịch của ngài Khang Tăng Khải
đời Tào Ngụy. Vào thời đại Tam Quốc, Tào
Tháo cầm quyền, [nên vương triều thời đó
gọi là] Tào Ngụy. Ngài Khang Tăng Khải là người
thuở đó. Bởi lẽ, trong thời đại Tam Quốc,
Phật pháp đă khá hưng thịnh, [trong lănh thổ của
các vương triều] Ngụy, Thục, Ngô đều có
[Phật giáo], các địa phương đều có đạo
tràng Phật giáo. “Thị Vô
Lượng Thọ kinh chi đệ thất chủng” (là
phiên bản thứ bảy của kinh Vô Lượng Thọ),
bản của ông Vương Long Thư vừa nói trong phần
trên là loại thứ sáu. Năm loại trước là bản
dịch gốc, loại thứ sáu là bản hội tập
của Vương Long Thư, bản của Bành Thiệu Thăng
là loại thứ bảy. Loại thứ bảy là tiết
bổn, cũng được lưu thông, người ta cũng
thích đọc. “Đản thử
cẩn vi Ngụy dịch nhất chủng chi tiết bổn,
nhi phi chư dịch chi hội bổn” (Chỉ là một
bản trích lược của bản Ngụy dịch, chưa
phải là bản hội tập của các bản dịch).
Trong thời đại
hiện tại này, bản tiết bổn này là ǵ? Được
gọi là “kiến thức bùng nổ”. Quư vị thấy số
lượng sách so với xưa kia nhiều hơn bao nhiêu?
Trước đây, in ra một quyển sách chẳng dễ
dàng; hiện thời, nhất là do computer quá tiến bộ,
xuất bản một quyển sách là chuyện dễ ợt!
Chúng ta vào tiệm sách mà xem, trước kia, vào tiệm sách,
từ trường hết sức tốt đẹp, bước
vào thư viện hay tiệm sách, từ trường đặc
biệt tốt. Nay th́ không c̣n nữa, hiện thời thỉnh
thoảng tôi đến tiệm sách t́m mấy cuốn sách,
vừa bước vào tiệm, [cảm nhận] từ trường
hết sức xấu, v́ nguyên nhân ǵ? Chánh luận chẳng
c̣n nữa, đều là tà tri tà kiến, nên tạo thành cảm
giác hết sức lớn, hết sức rơ rệt. Lúc tôi c̣n
trẻ, thường la cà tiệm sách, quả thật là tối
thiểu những sách vở của cổ nhân chiếm phân
nửa, một nửa là của người thời nay, nửa
kia của cổ nhân. Hiện thời, tác phẩm của cổ
nhân ít ỏi. Chúng ta tới tiệm sách, sẽ thấy chỉ
là một góc nhỏ, những tác phẩm khác đều của
con người hiện thời. V́ thế, từ trường
rất bất hảo. Kiếm một nơi có từ trường
thanh tịnh thoải mái, gần như hiện nay t́m không ra,
do nguyên nhân ǵ? Tôi nghĩ mọi người chúng ta đều
biết: Ai phá hoại từ trường? Khoa học kỹ
thuật! Những thứ vừa mới được phát
minh đă phá hoại từ trường của cả địa
cầu!
Chúng ta hăy
quan sát cẩn thận cuộc sống của chúng ta. Những
thứ người b́nh thường ăn, đúng như kinh
Vô Lượng Thọ đă nói: “Ẩm
khổ thực độc” (ăn khổ, nuốt độc),
toàn ăn thứ độc địa. Thịt các động
vật, nếu là sáu mươi năm trước, chẳng
nói xa xôi, so với sáu mươi năm trước, người
bảy, tám mươi tuổi có thể nhớ lại, những
món thịt quư vị đă ăn lúc nhỏ có mùi vị giống
với thịt ḿnh ăn trong hiện tại hay không? Tôi từng
hỏi sư mẫu của tôi, tức phu nhân của tiên
sinh Phương Đông Mỹ, tôi nêu ra câu hỏi: “Các bà ăn
thịt heo, thịt gà, so với lúc tuổi thơ, tuổi
thiếu niên, thấy có cùng mùi vị hay chăng?” Bà ta suy
nghĩ ba bốn phút, rồi cho biết: “Khác hẳn!” Chúng
ta là người ăn chay, hăy suy nghĩ cẩn thận,
nay chúng ta ăn rau, những thứ rau thường ăn,
cải bẹ trắng cũng vậy, rau giền cũng thế,
củ cải cũng thế, đặc biệt là các loại
nấm, có giống như sáu mươi năm trước
hay không? Quá khác biệt! Sáu mươi năm trước, vị
nấm đông cô ngon hơn nhiều, tuyệt hơn nhiều!
Hiện thời chẳng có mùi vị ǵ! Thấy chúng rất
lớn, h́nh dáng rất dễ ưa, nhưng chẳng có vị
ǵ hết! Rau dưa cũng chẳng tươi ngon như
trước, đều chẳng c̣n nữa, do nguyên nhân ǵ?
Thuốc trừ sâu và phân hóa học đă phá hoại rồi!
Do vậy, đất đai hiện thời có chất độc,
quư vị trồng thứ ǵ cũng đều có độc,
đây chẳng phải là “thực
độc” (ăn chất độc) ư? Đúng vậy!
Chẳng giả tí nào! V́ thế, người sống trong thế
gian này, càng sống càng vô vị, cuộc sống càng ngày càng
khổ sở. Khoa học hiện thời nói tới ǵ? Cơ
nhân (genes)! Phá hoại toàn bộ cơ nhân, phá hoại hoàn cảnh
thiên nhiên, phá hoại cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta coi
phần tiếp theo: “Ư thị,
văn Thanh Ngụy Thừa Quán (tự Mặc Thâm) cư sĩ”
(Do vậy, vào cuối đời Thanh, cư sĩ Ngụy
Thừa Quán, tên tự là Mặc Thâm), chúng ta thường gọi
ông này là Ngụy Mặc Thâm, đáng ra phải
gọi là Ngụy Nguyên[6]. Ngụy cư sĩ là người
đời Thanh. Nói “văn Thanh”
v́ ông ta sống vào thời Hàm Phong. Chúng ta biết Từ Hy
Thái Hậu là phi tử của hoàng đế Hàm Phong[7].
“Vị cứu Long Thư chi thất,
thủ ngũ chủng nguyên dịch, lánh hành hội tập,
biệt thành nhất thư, sơ nhưng danh Vô Lượng
Thọ Kinh, hậu kinh Chánh Định Vương Canh Tâm thị
cải danh vi Ma Ha A Di Đà kinh” (Nhằm cứu chữa khuyết điểm
của ông Long Thư, bèn lấy năm bản dịch gốc,
tiến hành hội tập lần nữa, soạn thành một
bản khác, thoạt đầu vẫn gọi là Vô Lượng
Thọ Kinh; về sau, được ông Chánh Định
Vương Canh Tâm đổi tên thành Ma Ha A Di Đà Kinh). Bản
này hiện thời không được lưu thông, nhưng
trong Đại Tạng kinh th́ có. Đây là bản thứ
tám của kinh Vô Lượng Thọ. “Ngụy bổn văn tự giản khiết, tinh
đáng, viễn quá Vương bổn” (bản của
ông Ngụy văn tự đơn giản, trong sáng, tinh vi,
thỏa đáng, vượt xa bản của ông Vương),
hội tập khá lắm, tiến bộ hơn bản của
ông Vương Long Thư. “Đản
suất tự tăng văn chi bệnh, vị năng tận
miễn, cố Ngụy bổn diệc vị tận thiện
dă” (Khuyết điểm tự tiện thêm lời văn
vào vẫn chưa thể hoàn toàn tránh khỏi, cho nên bản
của ông Ngụy cũng chưa phải là hoàn thiện).
Trong Văn Sao, Ấn Quang đại sư phê b́nh ông Ngụy
đă tùy tiện dựa theo ư ḿnh, sửa chữa văn tự
trong kinh văn. Chuyện này, lúc chúng tôi mới học kinh
giáo với thầy Lư tại Đài Trung, thầy có nêu lên vấn
đề này. Ông ta sửa có khéo hay không? Sửa thật khéo
lắm, nhưng cũng là tạo ra tiền lệ. Quư vị
thấy Vương Long Thư đă lập ra tiền lệ
này, Ngụy Mặc Thâm lại noi theo lệ ấy, đáng
sợ quá! Sợ là sẽ tạo thành [tiền lệ] cho những
kẻ chưa đạt tŕnh độ như vậy, chưa
có cảnh giới này, sẽ mặc sức sửa kinh. Vấn
đề này nghiêm trọng lắm!
Tiết bổn
như chúng tôi vừa mới nói, đối với xă hội
hiện tại rất cần thiết, v́ người trong
xă hội hiện tại chuộng đơn giản. Quư vị
có một quyển kinh sách kích thước to như thế,
người ta chẳng muốn đọc, mà cũng chẳng
có thời gian đọc. Càng đơn giản càng hay, người
ta càng ưa thích, đặc biệt là đối với phần
tử tri thức. Do vậy, tôi cũng soạn tiết bổn,
biên soạn tiết bổn cho kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo; đối với Đệ Tử Quy, tôi
cũng soạn tiết bổn. Tiết bổn Thập Thiện
Nghiệp Đạo của tôi đại khái chỉ có sáu
trăm chữ, thuận tiện, mọi người đọc
sẽ vui vẻ, lưu thông dễ dàng. Tôi c̣n có một tiết
bổn nữa. Đó là tiết bổn cuốn Kim Cang Kinh Giảng
Nghĩa của cư sĩ Giang Vị Nông. Cuốn Giảng
Nghĩa phân lượng rất lớn, tôi trích lấy những
điều trọng yếu. Tôi đă từng giảng kinh Kim
Cang một lần, h́nh như là giảng Kim Cang Kinh Giảng
Nghĩa Tiết Yếu, dùng cuốn tiết bổn này để
giảng. Tiết bổn này cũng được lưu
thông, có thể nói là rất thuận tiện cho người
mới học. Quư vị muốn thâm nhập hăy đọc
nguyên bản. Trong thời đại hiện tại có nhu cầu
này!
Tiếp
theo đó là nói đến bản hội tập này, giới
thiệu nhân duyên khiến cư sĩ Hạ Liên Cư hội
tập. “Tiên sư Hạ Liên
Cư lăo cư sĩ”, thầy của lăo cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ đă qua đời, đă văng sanh, nên gọi
là “tiên sư” lăo cư sĩ
Hạ Liên Cư. Trước hết, giới thiệu giản
lược đức hạnh của lăo cư sĩ. “Bi trí song vận”, cụ thật
sự có ḷng từ bi, có trí huệ. Chữ “song” (雙) chỉ từ bi
và trí huệ, tự hành, hóa tha, “vận”
(運) là vận dụng để tự hành,
dạy người. Điều này khá khó khăn! Có những
người sẵn ḷng từ bi nhưng thiếu trí huệ;
có kẻ có trí huệ lại thiếu ḷng từ bi, không chịu
dạy người khác, đều chẳng hoàn bị. Có trí
huệ lại chịu dạy người khác, Bồ Tát
đấy! “Tông Thuyết câu
thông”, Tông (宗) là Thiền Tông,
Thuyết (說) là Giáo Hạ. Nói đến Đại
Thừa Phật pháp của Trung Quốc th́ chính là Tông Môn và
Giáo Hạ. Do vậy, bản thân Phật giáo được
gọi là Tông, Giáo, chẳng liên quan ǵ đến [từ ngữ]
“tôn giáo” như chúng ta nói trong hiện thời, nhất định
phải biết điều này. Phật pháp tự xưng
là Tông Giáo, Tông ở đây là Thiền Tông, c̣n gọi là Tông Môn,
chín tông phái ngoài Thiền Tông đều gọi là Giáo Hạ.
V́ sao nói như thế? Phương thức giáo học khác
nhau! Thiền Tông là “ngộ hậu
khởi tu” (sau khi đă ngộ, sẽ tu). Khi chưa khai
ngộ, chẳng xem kinh giáo, chẳng đọc kinh điển.
Sau khi khai ngộ rồi mới xem kinh điển; c̣n Giáo Hạ
dốc sức nơi kinh điển trước, đến
cuối cùng là khai ngộ. V́ thế, đây là hai con đường
[khác nhau].
Như vậy
th́ Thiền Tông thích ứng với căn tánh nào? Bậc
thượng thượng căn, đó là đối tượng
của Thiền, người thường không tu được,
chúng ta phải hiểu điều này. Người tầm
thường không tu Thiền được. Bởi lẽ,
chẳng phải là bậc thượng thượng
căn, nếu quư vị tham Thiền, tham suốt đời,
vẫn gọi là tham uổng công. Quư vị chẳng khai ngộ!
Nếu quư vị chẳng thể khai ngộ, sẽ chẳng
thể liễu sanh tử. Nói cách khác, đáng luân hồi như
thế nào th́ vẫn luân hồi như thế ấy. Do vậy,
lúc tôi mới học Phật, ba vị thầy đều cảnh
cáo tôi đừng nên học Thiền Tông, quyết định
không thể học theo Lục Tổ Đàn Kinh, chẳng thể
học đ̣i ngài Huệ Năng. Họ thẳng thừng bảo
tôi: “Anh không hội đủ điều kiện!” Thầy
Phương giới thiệu Pháp Tướng Duy Thức và
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Thầy Lư
giới thiệu Tịnh Độ và Đại Phật Đảnh
Thủ Lăng Nghiêm, đó là Giáo Hạ. Đối tượng
của Giáo Hạ là ba căn thượng, trung, hạ, dốc
sức nơi kinh điển, theo thứ tự tiến lên
dần dần, giống như đi học, quư vị học
từ Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, đến
nghiên cứu sinh, từ từ tiến lên. [Đối tượng
của] Thiền Tông là đứa trẻ thiên tài; nó chẳng
cần đến Tiểu Học, Trung Học, Đại Học,
chẳng hề cần, có thể vào ngay ban nghiên cứu sinh,
có bản lănh này! V́ thế, thiếu bản lănh này, chẳng
thể học theo họ được! Đúng là chẳng
thể tùy tiện học tập được!
V́ thế,
trong Phật pháp, giữa Thiền và Mật, Mật hay hơn
Thiền một chút; đúng là nếu chẳng phải là bậc
thượng thượng căn, sẽ chẳng đạt
lợi ích nơi Thiền Tông. Mật cũng như vậy,
nhưng Mật c̣n có thứ tự, trước hết học
Hiển Giáo, Hiển Giáo có tŕnh độ nhất định.
Hiển Giáo là Giáo Hạ, có tŕnh độ nhất định,
phải tham gia khảo thí. Cũng có nghĩa là chưa đại
triệt đại ngộ trong Hiển Giáo [sẽ chẳng
thể học Mật]; đại triệt đại ngộ
kiến tánh rồi, so ra, mức độ đại triệt
đại ngộ thấp nhất phải là đại ngộ.
Có tiểu ngộ, có đại ngộ. Nói cách khác, [người
muốn tu Mật phải] đạt được tâm
thanh tịnh. Đối với đại triệt đại
ngộ, chúng ta dùng ngay tiêu chuẩn trong tựa đề
kinh này: “Thanh tịnh b́nh đẳng
giác”. Giác là đại triệt đại ngộ, minh
tâm kiến tánh, đó là điều kiện của Thiền
Tông, điều kiện của Tông Môn. Trong Giáo Hạ, quư vị
đắc thanh tịnh tâm, thưa quư vị, đắc
thanh tịnh tâm là buông Kiến Tư phiền năo xuống, chẳng
c̣n chấp trước nữa, đương nhiên trí huệ
mở mang, tâm thanh tịnh sanh trí huệ, đó gọi là “khai
ngộ”. Vẫn chưa phải là đại ngộ, nhưng
nếu đă thật sự đắc thanh tịnh tâm, đoạn
hết Kiến Tư phiền năo, có thể học Mật được
hay không? Có thể được! Nhưng vẫn chưa phải
là học sinh chính thức của Mật Tông! Học sinh chính
thức của Mật Tông c̣n phải nâng [cảnh giới]
lên cao hơn một tầng nữa là đại ngộ, chưa
phải là triệt ngộ, mà là đại ngộ. Đại
ngộ là ǵ? Vẫn phải buông Trần Sa phiền năo xuống,
đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian chẳng phân biệt, đó là học sinh chính thức
của Mật Tông, quư vị mới có tư cách học tập,
chẳng dễ dàng đâu nhé! Người ấy đă đại
ngộ, nhưng vẫn chưa triệt ngộ. V́ sao? Vẫn
c̣n khởi tâm động niệm, khởi tâm động
niệm tức là chưa phá vô minh phiền năo.
Chúng ta chọn
lựa pháp môn, chính ḿnh hiểu rơ ràng căn tánh của chính
ḿnh. Chọn sai là quư vị đă uống lầm thuốc!
Bị mắc bệnh mà uống lầm thuốc, không chỉ
chẳng trị hết bệnh, mà không chừng bệnh c̣n
nặng hơn. Quư vị nói có phiền lắm không? Phật
pháp là thuốc. Tám vạn bốn ngàn pháp môn giống như
vào tiệm thuốc, thấy các món thuốc bày la liệt
nhiều ngần ấy, quư vị có thể uống hết
hay chăng? Có dám uống hay chăng? Chúng ta biết: Không có
bác sĩ kê toa, chẳng dám uống, sợ uống vô là rồi
đời! Vậy mà Phật pháp quư vị tùy tiện tu, chẳng
sợ hay sao? V́ thế, trong kinh Đại Thừa, trong
kinh Hoa Nghiêm có nói: “Phật pháp không có ai nói, dẫu là người trí
cũng chẳng thể hiểu”.
Những vị tổ sư đại đức từ
xưa giống như bác sĩ, hay giống như y tá, họ
thông hiểu. Chúng ta muốn học Phật, hăy kiếm những
người ấy. Họ thấy chúng ta thuộc căn
tánh nào, sẽ giới thiệu cho chúng ta kinh điển nào;
đấy là chuyện tất yếu, chính ḿnh chớ nên tùy
tiện ṃ mẫm. Do vậy, quư vị thấy: Trong sự
học Phật, thầy là mấu chốt quyết định
sự thành bại đối với sự tu học của
quư vị trong một đời này. Nếu quư vị thật
sự gặp được thiện tri thức hay một
vị thầy thật sự tốt đẹp, quư vị sẽ
chiếm tiện nghi rất lớn. V́ sao? Không đi theo đường
ṿng! Chính ḿnh mắc bệnh, hăy t́m một bác sĩ giỏi,
bác sĩ khám bệnh, kê toa, quư vị uống thuốc ấy
vào, sẽ khỏi bệnh. V́ thế, thiện hữu trong
Phật môn khó gặp gỡ! Chúng ta đến nơi đâu
để cầu? Bất quá, trong hiện tại cũng chẳng
có ai cầu! V́ sao? Ngay cả đối với cha mẹ mà
cũng không hiếu thảo, chẳng cần đến họ,
c̣n nói ǵ đến tôn trọng thầy?
Phật
pháp là giáo dục của thánh hiền, là giáo dục của
bậc đại thánh đại hiền. Nếu quư vị
không biết tôn sư trọng đạo, đến nơi
đâu để cầu? Chẳng có chỗ nào để cầu!
Nhà Phật thường nói: “Phật
độ hữu duyên nhân”, ai là người có duyên? Thưa
chư vị, hiếu thuận phụ mẫu, tôn sư trọng
đạo, kẻ ấy có duyên. Bất hiếu phụ mẫu,
bất kính tôn trưởng, không coi trọng thánh đạo,
vô duyên! Có gặp bậc thiện tri thức chân chánh cũng
vô dụng. V́ sao? Quư vị chẳng thể tiếp nhận!
Quư vị đọc kinh chẳng hiểu, hiểu lệch
lạc ư nghĩa, chính ḿnh suy tưởng kinh có ư nghĩa ǵ,
nghe kinh cũng không hiểu. V́ thế, bài Khai Kinh Kệ đă
nói rất hay: “Nguyện giải
Như Lai chân thật nghĩa”. Quư vị thiếu tâm tôn
kính, thiếu tâm thành kính, nghe rồi sẽ hiểu vặn
vẹo ư nghĩa, dùng phiền năo tập khí của chính ḿnh,
dùng tri kiến bất chánh để giải thích kinh Phật,
giải thích hoàn toàn sai bét. Học được mấy chục
năm, cuối cùng bảo kinh Phật chẳng linh, lại
c̣n hủy báng. V́ thế, thiện tri thức chân chánh suốt
đời mong kiếm được truyền nhân. Thầy
truyền dạy Phật pháp cho ta, ta phải truyền cho
ai? Nếu không có truyền nhân, quư vị phải soạn sách,
đem sở học và sở ngộ của ta viết thành
sách, ḥng lưu truyền sách ấy cho hậu thế, ḥng truyền
cho người hữu duyên trong đời sau. Chẳng dễ
dàng! Quá khó khăn!
Thầy Lư
bảo tôi: Học tṛ kiếm thầy đă khó, mà thầy
kiếm được một học tṛ để truyền
pháp càng khó hơn, đến đâu để t́m? Chẳng
thể nói học tṛ của thầy Lư không đông! Đông
lắm! Tính toán dè đặt nhất cũng phải hơn
năm mươi vạn người! Trong số đó, có
mấy ai có thể truyền pháp của cụ? Người
văng sanh th́ có, người văng sanh không ít, niệm Phật
văng sanh; kẻ thật sự truyền pháp ít lắm! Khó quá!
Người thật sự truyền pháp phải hội đủ
điều kiện như Ấn Quang đại sư
đă dạy: Đối với thầy, một phần thành
kính, được một phần lợi ích; hai phần
thành kính, được hai phần lợi ích; mười
phần thành kính, quư vị phải mười phần lợi
ích. Chẳng thành kính, quư vị nghe suốt một trăm năm
ở nơi đó cũng chẳng có lợi ích, mấu chốt
ở chỗ này. Thành kính do đâu mà có? Thành kính là Tánh Đức,
từ hiếu dưỡng phụ mẫu sanh ra. Dùng tâm hiếu
dưỡng cha mẹ để đối đăi thầy,
đó là tôn sư trọng đạo. Nếu đối với
cha mẹ cũng chẳng hiếu thuận, vậy là xong luôn!
Học Phật suốt đời này, chẳng có lợi ích
ǵ, [chỉ là] gieo chủng tử Phật pháp trong A Lại
Da Thức, chẳng thể thành tựu trong một đời
này. Chúng ta nghe lời này, rất kinh sợ, chẳng thể
thành tựu th́ làm thế nào đây? Khéo sao có duyên phận đặc
biệt với pháp môn Tịnh Tông! Quư vị phải thật
sự học, sám trừ nghiệp chướng, khi c̣n có một
hơi thở, tới cuối cùng một niệm hay mười
niệm đều có thể văng sanh. Đây là chỗ thù thắng
trong Tịnh Tông. Do vậy, tại Đài Trung Liên Xă, chúng tôi
thấy quả thật có không ít liên hữu văng sanh. Tính toán
dè dặt nhất th́ thầy Lư giảng kinh, dạy học
tại Đài Trung ba mươi tám năm, người theo
cụ niệm Phật văng sanh Cực Lạc thế giới,
thật sự văng sanh, tôi phỏng đoán phải hơn năm
trăm người! Công đức này thù thắng, thật
sự khó có, khá lắm!
Do vậy,
Phật pháp là sư đạo. Sư đạo nhất
định lấy hiếu đạo làm cơ sở. Quư vị
thấy Tịnh Nghiệp Tam Phước đă nói rất rơ
ràng! Câu đầu tiên là “hiếu
dưỡng phụ mẫu”, câu thứ hai là “phụng sự sư trưởng”,
“từ tâm chẳng giết, tu
Thập Thiện Nghiệp”, đấy là điều kiện
cơ bản để vào Phật môn. Quư vị phải thực
hiện bốn câu này th́ mới có thể trở thành một
đệ tử Phật thật sự. Nói cách khác, đối
với kinh Phật, quư vị có thể tin, có thể hiểu,
đó là thiện căn của quư vị. Quư vị có thể
y giáo phụng hành, đó là phước đức. Quư vị
có thể hành, có thể chứng, văng sanh là chứng quả,
bất luận ba bậc chín phẩm, dẫu là Hạ Hạ
Phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, quư vị
cũng chứng đắc Phật quả viên măn rốt
ráo. V́ sao? Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, không một ai chẳng viên thành Phật đạo
trong một đời. Chúng ta nghiệp chướng nặng
nề, sám trừ như thế nào? “Sám trừ” là sửa đổi. Kinh điển là
tiêu chuẩn [để biện định] thị phi, thiện
ác, bắt đầu học từ chỗ nào? Đức Thế
Tôn chỉ dạy chúng ta, bắt đầu bằng Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Ngẫu Ích đại sư có
soạn tiết bổn cho Thập Thiện Nghiệp Đạo
Kinh, dài hơn tiết bổn của tôi, hăy dùng [kinh này] để
sửa lỗi, đổi mới, rất thực dụng!
Trên thực tế, trong những năm qua, ba món căn bản
của Nho, Thích, Đạo do chúng tôi đề xướng
là có căn cứ hay không? Có phải là bịa đặt, đồn
thổi hay không? Có căn cứ! Căn cứ ǵ vậy? Căn
cứ theo điều thứ nhất của Tịnh Nghiệp
Tam Phước. Hiếu dưỡng phụ mẫu bằng
cách nào? Phụng sự sư trưởng bằng cách nào?
Chúng ta thi hành Đệ Tử Quy. Một trăm mười
ba điều trong Đệ Tử Quy đều là hiếu
thân tôn sư (hiếu thảo đối với cha mẹ,
tôn trọng thầy), xuất phát từ Tịnh Nghiệp
Tam Phước. Đối với từ tâm chẳng giết,
chúng ta bèn thực hiện Thái Thượng Cảm Ứng Thiên
của Đạo Gia, [do sách ấy] giảng nhân quả,
giáo dục. Để thực hiện câu cuối cùng, chúng
ta tu Thập Thiện Nghiệp. Do vậy, chúng ta thi hành ba món
căn bản của Nho, Thích, Đạo, đấy là dựa
trên điều thứ nhất trong Tịnh Nghiệp Tam Phước.
Trước hết, quư vị thi hành ba món căn bản,
sau đấy mới có thể nhập Phật môn, mới
có thể thật sự tiếp nhận Tam Quy, Ngũ Giới.
Điều thứ hai là “thọ
tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi”. Trong điều này, chuyện
rất tuyệt vời là trọn đủ các giới, “trọn đủ” là chẳng
thiếu một điều nào. Trong Tiểu Thừa có bao
nhiêu điều? Ba ngàn oai nghi, tức ba ngàn điều;
Đại Thừa có bao nhiêu điều? Tám vạn bốn
ngàn oai nghi, Bồ Tát mà! Tận thiện, tận mỹ. Nhiều
điều như thế, do đâu mà có? Thưa quư vị, từ
Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp
triển khai. Tám vạn bốn ngàn oai nghi Bồ Tát quy nạp
lại sẽ là ba thứ này, mà triển khai ra sẽ nhiều
như thế đó. Có một lần ở Úc, tôi phỏng
vấn Do Thái Giáo, trưởng lăo Do Thái Giáo bảo tôi: Họ
có sáu trăm điều giới luật. Tôi nghe xong rất
hoan hỷ, tôi cũng mời ông ta giới thiệu cho tôi, mời
họ tới học viện của chúng
ta giảng về môn này để chúng ta học tập
khuôn mẫu sống.
Cụ
Hạ “Tông Thuyết câu thông”
tức là Tông Môn lẫn Giáo Hạ đều thông, chữ “thông” này chẳng dễ dàng! Trong
câu trước, “bi trí song vận” là nói đến
đức hạnh của cụ, “Tông Thuyết câu thông” là nói về học vấn. “Viên dung hiển mật, Thiền
Tịnh ư nhất tâm” (viên dung Hiển Mật, Thiền
Tịnh trong một tâm) là nói về công phu và cảnh giới
của cụ. Hiển Giáo, Mật Giáo, Thiền Tông, Tịnh
Độ, bốn chữ này bao quát hết thảy những
pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi
chín năm, chẳng sót thứ ǵ, viên dung trong nhất tâm. Tuy
là như thế, lăo nhân gia “chuyên
hoằng Tŕ Danh Niệm Phật nhiếp vạn đức”
(chuyên hoằng dương pháp môn Tŕ Danh Niệm Phật nhiếp
thâu muôn đức), đây là nói cụ phát đại Bồ
Đề tâm phổ độ hết thảy chúng sanh, dùng
phương pháp ǵ? Dùng Tịnh Độ, dùng phương pháp
Tŕ Danh Niệm Phật trong Tịnh Độ. Phương
pháp này từ đâu ra? Từ kinh Vô Lượng Thọ, từ
kinh Di Đà, từ phép Quán thứ mười sáu trong kinh Thập
Lục Quán. Phép Quán thứ mười sáu là tŕ danh niệm
Phật. Những cách khác gồm có Thật Tướng Niệm
Phật, Quán Tượng Niệm Phật, Quán Tưởng Niệm
Phật, đến cuối cùng là nói Tŕ Danh Niệm Phật,
Tŕ Danh là phương tiện rốt ráo. Đây là Hạ lăo
cư sĩ từ bi đến tột cùng, cụ dùng pháp
môn này để nhiếp vạn đức. Vạn đức
là trí huệ và đức tướng xứng tánh nơi quả
địa Như Lai. “Vị hoằng
Tịnh Tông, cố nguyện thử Tịnh Tông đệ
nhất chi kinh, phá trần sanh quang” (v́ hoằng dương
Tịnh Tông, nên nguyện khiến cho bộ kinh đệ
nhất trong Tịnh Tông này được tan bụi, tỏa
sáng). “Phá trần sanh quang” là
tỷ dụ, do mong muốn bộ kinh bậc nhất của
Tịnh Tông nhất định phải có bản tốt nhất,
có một bản tiêu chuẩn, cho nên phải hội tập
lần nữa. Hai lần hội tập trước kia đều
có tỳ vết, có sai lầm, dẫu hay nhưng chưa
viên măn. Đó là điều đáng tiếc nuối, cho nên
lăo nhân gia phát tâm hội tập lần nữa.
“Kư thử vô thượng chi
điển, nhiêu ích đương lai” (mong cho cuốn
kinh vô thượng này lợi lạc mai sau). Trong tương
lai, hăy c̣n có chín ngàn năm nữa, thời Mạt Pháp là một
vạn năm. Kẻ học Phật chúng ta chẳng thể
không biết pháp vận của đức Phật, rất
nhiều người nói tới ngày tận thế, trong Phật
pháp không có cách nói này. Pháp vận của Phật hăy c̣n chín ngàn
năm nữa. Những năm qua, tôi đă lớn tuổi,
trí nhớ chẳng tốt lắm; trước kia, tôi nhớ
rất rơ ràng, các vị trẻ tuổi hăy kiểm xem, theo
ghi chép của người Trung Quốc, từ các trước
tác của cổ nhân sẽ có thể tra ra, từ lúc Thích Ca
Mâu Ni Phật diệt độ cho đến hiện tại,
tôi nhớ h́nh như là ba ngàn ba mươi mấy năm, cụ
thể là ba mươi mấy năm th́ các vị hăy kiểm
xem. Trong Niên Phổ của lăo ḥa thượng Hư Vân có nói
ba ngàn ba mươi mấy năm. Pháp vận của Phật:
Chánh Pháp là một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm,
hiện thời đă qua hai ngàn năm, sau đó, c̣n có Mạt
Pháp một vạn năm. Một vạn năm mới trải
qua một ngàn lẻ ba mươi mấy năm, cho nên thời
gian về sau vẫn c̣n dài, lẽ nào có ngày diệt vong? Trong
thời kỳ Mạt Pháp dài như thế, Phật pháp có
hưng, có suy, xưa kia Chương Gia đại sư đă
bảo với tôi chuyện này. Ngài bảo tôi: Hiện tại
Phật pháp đă suy đến chỗ cùng cực, nhưng
chớ sợ, sẽ hưng khởi, Phật pháp sẽ lại
hưng khởi, có hưng, suy, nhưng chẳng diệt. Tới
khi nào sẽ diệt? Chín ngàn năm sau, Phật pháp thật
sự diệt. Chúng ta tin đức Phật chẳng vọng
ngữ, Như Lai là đấng chân ngữ, đấng thật
ngữ, đấng như ngữ, đấng không nói dối,
chúng ta tin tưởng Ngài. V́ thế, cụ Hạ mong bộ
kinh này có được một bản tiêu chuẩn hoàn thiện
vô cùng tốt đẹp. Bản này sẽ lợi lạc tương
lai trong khắp chín ngàn năm sau.
Pháp môn nào,
kinh điển nào khế cơ nhất? Phải là bộ
kinh này. Trong bộ kinh này, từng câu, từng chữ đều
do đức Phật nói, chẳng giả tí nào. Bản dịch
gốc được dịch từ tiếng Phạn,
trong bản tiếng Phạn có rất nhiều chỗ khác
nhau, cho thấy Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng phải chỉ
tuyên giảng kinh này một lần, mà là tuyên giảng nhiều
lần. Nh́n từ năm bản dịch gốc, tối thiểu
là ba lần tuyên giảng. Chúng ta bị thất truyền bảy
bản, chẳng thấy nữa. Nếu cả bảy bản
ấy hăy c̣n, có phải là c̣n có những chỗ chẳng giống
nhau hay không? Quư vị có thể t́m thấy [bằng cớ
chứng tỏ] kinh này đă được giảng hơn
ba lần. Đây là đức Thế Tôn vô tận từ
bi, chúng ta có hiểu rơ mới có thể sanh tâm cảm ơn.
Chẳng do pháp môn này, chúng ta sẽ chẳng thể đắc
độ, chắc chắn là vậy! Chúng ta có thể sanh lên
trời, nhưng không thoát khỏi lục đạo luân hồi.
Thoát lục đạo luân hồi rất khó, đoạn Kiến
Tư phiền năo chẳng dễ dàng [đoạn trừ].
Chẳng đoạn Kiến Tư, quư vị chẳng thoát
khỏi luân hồi. Sanh lên trời th́ có ai đă chưa từng
sanh lên trời? Tất cả chúng sanh trên quả địa
cầu này, quư vị nghĩ xem có ai chưa từng sanh lên
trời? Trong quá khứ đều đă ở trên trời,
hưởng hết phước trời, nghiệp chướng
hiện tiền, lại đọa xuống, chuyện là như
thế đó! Lên lên xuống xuống trong lục đạo!
Có người nào chẳng từng đọa địa ngục?
Có chứ, trong các đồng học học Phật của
chúng ta có [người đă đọa địa ngục],
làm sao biết? Do thôi miên nên biết. Người ấy được
chuyên viên thôi miên đến mức độ sâu, rồi hỏi:
“Bạn đang ở đâu?” Trong địa ngục. Trạng
huống của địa ngục khổ vô cùng, chịu
khổ trong địa ngục. Người ấy đi vào
địa ngục, mà cũng lên thiên đường, thật
đấy! Trong lục đạo, đường nào người
ấy cũng đều đă từng trải; cho nên chẳng
có chi là lạ lùng, hiếm có cả!
Liễu
giải chân tướng sự thật này. Quư vị biết
con người có chết hay không? Không chết, mà là luân hồi
trong lục đạo. Cái thân xác thịt sanh tử, nhục
thân có sanh diệt, đây là một hiện tượng b́nh
thường, linh hồn (thần thức) bất diệt.
Thưa quư vị, linh hồn là mê, khi mê gọi là linh hồn;
hễ giác ngộ chẳng gọi là linh hồn, mà gọi
là “linh tánh”, linh tánh bất diệt. Chưa thoát khỏi lục
đạo th́ gọi là linh hồn, vượt thoát lục
đạo bèn gọi là linh tánh, đó là ai? Từ bậc A
La Hán trở lên. Chỉ cần quư vị thoát khỏi lục
đạo luân hồi, bèn là A La Hán. A La Hán được gọi
là linh tánh, chẳng mê; cho nên A La Hán đắc Chánh Giác. A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là mục tiêu chung và
duy nhất của người học Phật chúng ta, học
Phật để mong đạt được ǵ? Đạt
được điều này. Dịch sang nghĩa tiếng
Hán, [A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề] là Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. A La Hán đắc Chánh
Giác, Bồ Tát đắc cao hơn, Chánh Đẳng Chánh
Giác. Sở đắc của Phật có thêm Vô Thượng,
tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác vượt thoát mười pháp giới,
trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như
Lai, chúng ta cũng thường gọi cảnh giới ấy
là Nhất Chân pháp giới. Bồ Tát vẫn thuộc trong tứ
thánh pháp giới của mười pháp giới.
Đây là
nói rơ với chúng ta: Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật hăy
c̣n chín ngàn năm nữa. Chín ngàn năm sau, khi thế gian này
không c̣n Phật pháp, thật là khổ! Phật, Bồ Tát chẳng
bỏ chúng sanh khổ nạn, cho đến lúc này, dù Phật,
Bồ Tát chẳng hiện, vẫn có một vị đại
diện. Tôi nghĩ vị này chư vị đều biết:
Địa Tạng Vương Bồ Tát! Ngài thay Phật hóa
độ chúng sanh, đại diện cho Phật, măi cho
đến khi đức Phật kế tiếp xuất thế.
Đức Phật kế tiếp là Di Lặc Bồ Tát. Hiện
thời có rất nhiều lời đồn đại Di
Lặc Bồ Tát đă giáng hạ. Thưa quư vị, giả
trất, chẳng thể tin tưởng được! Di
Lặc Bồ Tát ứng hóa trong thế gian này là chuyện b́nh
thường, chẳng hiếm lạ tí nào! Trong các truyện
kư của Phật môn Trung Quốc đă ghi chép rất rơ
ràng, Bố Đại Ḥa Thượng là Di Lặc Bồ
Tát hóa thân vào thời Tống. Nay chúng ta thờ tượng
Bố Đại Ḥa Thượng chính là thờ hóa thân của
Di Lặc Bồ Tát. Chúng ta thấy Di Lặc Bồ Tát ở
Tây Tạng, hoặc thấy tượng Di Lặc Bồ
Tát của Phật Giáo Nam Truyền (Phật Giáo Nam Tông,
Theravada), Ngài có h́nh dáng giống như Quán Thế Âm Bồ
Tát, gầy nhom, chẳng phải là dáng vẻ [mập mạp
này]. Do Ngài thị hiện tại Trung Quốc dùng h́nh dạng
Bố Đại Ḥa Thượng, nên dùng h́nh dáng ấy để
tạc tượng. Theo truyện kư ghi chép, một hóa thân
khác là Phó Đại Sĩ vào đời Đường, hiện
thân cư sĩ, đó là Di Lặc Bồ Tát tái lai. Phật,
Bồ Tát thường đến ứng hóa trong thế
gian, nên dùng thân nào để độ được, bèn hiện
thân ấy. Nói Di Lặc Bồ Tát chưởng quản thiên
bàn[8], hay Di Lặc Bồ Tát giáng hạ nhân
gian làm Phật, đều là giả. Di Lặc Bồ Tát sẽ
giáng sanh cơi nhân gian làm Phật vào lúc nào? Trong Di Lặc Hạ
Sanh Kinh[9]
đă nói rất rơ ràng: Năm mươi sáu ức bảy
ngàn vạn năm sau. Trong thời gian không có Phật xuất
thế, Địa Tạng Bồ Tát thay mặt. Chúng ta nhất
định phải căn cứ trên những điều
kinh điển đă ghi chép, đó là thật, chẳng phải
giả.
Do Phật
pháp c̣n có thời gian [tồn tại] dài như thế, trong
thời kỳ Mạt Pháp, pháp môn này sẽ dần dần
biến thành pháp môn chánh yếu. V́ sao? Các pháp môn khác tuy hay,
nhưng chẳng hợp căn tánh, quư vị nương theo
những pháp môn khác tu học hết sức khó khăn, rất
khó thành tựu, nên Tịnh Tông biến thành chủ yếu.
Trở thành chủ yếu mà nếu không có một kinh điển
tiêu chuẩn để chúng ta nương theo, đúng là rất
đáng tiếc. Do vậy, mới có “cảm”, cũng có nghĩa
là nói do người tu hành trong chín ngàn năm của thời
Mạt Pháp có nhu cầu, nhu cầu ấy là cảm, nên Phật,
Bồ Tát có ứng. Sự “ứng” ấy chính là cư
sĩ Hạ Liên Cư xuất hiện trên thế gian. Do
chúng sanh có cảm, Ngài tới ứng hóa. Ngài tới thế
gian này để làm chuyện ǵ? Để làm chuyện này!
Chúng ta hiểu rất rơ ràng. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
biết, nhưng tôi không biết, tôi thỉnh giáo cụ, tôi
hỏi: “Rốt cuộc cụ Hạ là vị nào tái lai?” Cụ
Hoàng mỉm cười: “Hiện thời phải giữ kín,
hiện thời chẳng thể nói được!” Chẳng
thể nói, hiện thời cụ cũng đă khuất bóng
rồi, tôi chẳng hỏi ai được! Chắc chắn
[cụ Hạ] chẳng phải là phàm nhân. Quư vị hăy nghĩ
xem: Vương Long Thư có phải là phàm nhân hay không? Ngụy
Mặc Thâm có phải là phàm nhân hay không? Phàm nhân không thể
làm được! Cụ Hạ Liên Cư hội tập một
bản viên măn như vậy, chúng tôi suy đoán: Nếu cụ
chẳng phải là A Di Đà Phật tái lai, nhất định
là Quán Thế Âm Bồ Tát tái lai, mới có trí huệ, mới
có đức năng để làm chuyện to lớn này! Điều
này cũng giống như thầy Lư thường nói với
chúng tôi: Nói theo Lư th́ thông suốt, nhưng trên mặt Sự
chưa có chứng cứ, nhưng nói theo Lư th́ hợp lư.
Lợi lạc
tương lai, “năi kế tiền
hiền, trùng hành hội tập” (bèn kế tục tiền
hiền, hội tập lần nữa). “Tiền hiền” là ba vị trước đó, trên
thực tế là hai vị, tức Vương Long Thư và
Ngụy Mặc Thâm, hội tập lần thứ ba. Đây
là phiên bản thứ chín. Đoạn tiếp theo nói rơ tâm
thái và những điều từng trải khi cụ Hạ
hội tập lần nữa, cụ dùng tâm tư thái độ
như thế nào? “B́nh khí vạn
duyên” (Ngăn bỏ muôn duyên), chúng ta thường nói là
“buông xuống vạn duyên”, điều ǵ cũng đều
buông xuống. “Yểm quan tam
tái”, nghĩa là bế quan trong thời gian ba năm, dùng cách
thức này để buông xuống hết thảy những
thứ quấy nhiễu. Một ḿnh, v́ trong phần sau, cụ
Hoàng có viết một câu: “Minh
tâm cô nghệ” (lặng lẽ tiến hành một ḿnh), đấy
là chỉ có một người, không có đồng bạn.
“Tịnh đàn kết giới”
là cụ chân thành thực hiện công tác hội tập. Ba
năm sau, hoàn thành bản thảo. Sau khi đă hoàn thành, “cảo kinh thập dịch”,
nghĩa là trải qua mười lần sửa chữa, “phương khánh kinh thành” (mới
mừng kinh đă được hội tập xong), kinh này
mới thành tựu. Chẳng phải là ba năm bèn thành tựu,
ba năm mới hoàn thành bản thảo đầu tiên, mất
mười năm mới hoàn thành bản [hoàn thiện] này.
Quư vị thấy Ngài rất nghiêm túc, đă biểu thị
cho chúng ta thấy, biểu thị ư nghĩa ǵ vậy? Mười
phần thành kính, bèn được mười phần lợi
ích. Kinh này công đức viên măn, chẳng thể có mảy
may khinh mạn nào. Dùng cái tâm khinh mạn, chắc chắn quư
vị chẳng thể làm thành công, chắc chắn có tỳ
vết! Cụ Hạ hội tập chân thành như vậy,
nay chúng ta thọ tŕ, cũng phải dùng tấm ḷng chân thành
như cụ Hạ để thọ tŕ mới đạt
được lợi ích. Nếu chẳng có ḷng chân thành như
thế, quyển kinh bày ra trước mặt quư vị, đọc
tụng mỗi ngày, chẳng có lợi ích! Chúng ta nhất
định phải hiểu điều này!
V́ sao chúng
ta học Phật học lâu năm như thế mà vẫn
cứ hời hợt, bộp chộp? Trong tâm lư vẫn đầy
ắp tham, sân, si, mạn, nghi? Học Phật đă lâu năm
như thế mà Ngũ Độc có giảm được
vài phần hay chăng? Không có! Giống hệt như chẳng
học Phật th́ kể ra vẫn c̣n chưa sao, sợ nhất
điều ǵ? Bản thân ta mỗi năm mỗi lớn tuổi,
càng phiền toái hơn, phiền năo tập khí càng ngày càng nặng!
Nếu là t́nh huống như vậy, chính ḿnh phải hiểu
rơ: Chẳng tránh khỏi luân hồi. Luân hồi vào đâu? Đời
sau ta c̣n có thể được làm thân người hay không?
Vậy là phải hỏi quư vị, quư vị tu Thập Thiện
Nghiệp ra sao? Trong kinh, đức Phật đă dạy chúng
ta, Trung Phẩm Thập Thiện sẽ được làm
thân người, đời sau vẫn được làm
người. Quư vị hăy tự suy nghĩ: Hăy dựa vào lương
tâm của quư vị để chấm điểm Thập
Thiện Nghiệp Đạo của bản thân, có được
bảy mươi hay tám mươi điểm hay không? Có
thể chấm đến bảy mươi, tám
mươi điểm, đời sau quư vị chẳng mất
thân người. Nếu nói ta chỉ được năm
mươi điểm, chẳng chắc ăn! Cơ duyên đọa
lạc vô cùng nhiều! Nếu đạt điểm trọn
vẹn, sẽ là Dục Giới Thiên, đại đa số
sanh về đâu? Lên trời Đao Lợi. Trời Đao Lợi
th́ phải được trọn điểm. Thực hiện
Thập Thiện Nghiệp bằng cách nào? Đệ Tử
Quy! Đệ Tử Quy là bước đầu thực hiện
Thập Thiện Nghiệp. Một trăm mười ba điều
của Đệ Tử Quy, quư vị có làm được hay
không? Từ chỗ này mà suy nghĩ, quư vị sẽ run sợ,
v́ sao? Nếu chẳng thể văng sanh, vẫn phải tiếp
tục luân hồi, cơ duyên tam ác đạo quá nhiều!
Duyên trong ba thiện đạo quá mỏng, làm thế nào đây?
Đáng sợ hay chăng? Đáng sợ! Có thể sửa đổi
hay không? Vẫn chẳng thay đổi th́ có sợ cũng
vô dụng!
So với
pháp sư Oánh Kha đời Tống, chúng ta kém xa! Người
ta quả thật là kẻ xuất gia, phá giới, hủy
phạm Thanh Quy, tự biết do khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, hành vi của chính ḿnh chắc chắn sẽ đọa
địa ngục. Sư sợ, biết địa ngục
khổ năo, hỏi đồng tham đạo hữu có
phương pháp nào cứu giúp hay không? Bạn đồng học
cũng tuyệt lắm, tặng Sư một quyển Văng Sanh
Truyện, bảo Sư tự xem. Sư đọc bèn cảm
động, cứ xem một bài, lại đau đớn
khóc ṛng, tâm sám hối nẩy sanh, hạ quyết tâm bế
quan niệm Phật, ba ngày ba đêm chẳng ngủ, chẳng
ăn, chẳng nghỉ ngơi, một câu Phật hiệu chân
thành niệm đến cùng. V́ lẽ ǵ? Sợ nỗi khổ
địa ngục! Cầu cứu mạng nên thật sự
thực hiện. Ba ngày ba đêm niệm được A Di
Đà Phật hiện đến. A Di Đà Phật thật
sự từ bi, quư vị thật sự tu, Ngài sẽ thật
sự quan tâm chăm sóc quư vị. A Di Đà Phật hiện
đến bảo Sư: “Ông c̣n thọ mười năm nữa,
hăy gắng niệm Phật. Chờ tới khi ông đă hết
tuổi thọ, ta sẽ đến tiếp dẫn ông”.
Oánh Kha nghe xong bèn xin với A Di Đà Phật, Sư nói: “Con
chẳng cần mười năm thọ mạng. Nếu
con sống thêm mười năm nữa, bản thân con không
chống nổi dụ dỗ, mê hoặc, chẳng biết sẽ
tạo bao nhiêu tội nghiệp, con chẳng cần mười
năm thọ mạng, nay con đi theo Ngài”. A Di Đà Phật
thông t́nh đạt lư, bảo Sư: “Được! Ba ngày
sau ta đến đón ông”. Sư vui sướng, mở toang
cửa pḥng, bảo đại chúng: “Tôi niệm A Di Đà
Phật ba ngày, cảm Phật hiện đến. Ba ngày nữa
A Di Đà Phật sẽ tiếp dẫn tôi văng sanh”. Đồng
tham đạo hữu trong chùa ai nấy đều cảm
thấy rất ngạc nhiên: “Thời gian ba ngày coi bộ chẳng
dài, xem ngươi ba ngày sau có văng sanh hay không?” Nhưng nghe
ra lời lẽ của ông ta chẳng giống như gạt
người, dường như là thật sự có chuyện
như vậy. Tới ngày thứ ba, Sư yêu cầu đại
chúng niệm Phật đưa Sư văng sanh;
đương nhiên đại chúng vui vẻ, được
rồi, đều niệm Phật hồi hướng cho ông
ta. Niệm Phật chưa đầy một khắc, Sư
bảo mọi người: “A Di Đà Phật tới rồi,
tôi thấy Ngài đón tôi đi” liền tịch, thật sự
đi. Kinh Di Đà có nói: “Hoặc
một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày”, là thật, chẳng
giả. Pháp sư Oánh Kha biểu diễn cho chúng ta xem, thật
sự sợ khổ địa ngục, buông xuống vạn
duyên, nhất tâm niệm Phật, lập tức văng sanh. Thọ
mạng bao nhiêu cũng chẳng cần, ở trong thế
gian này đều là tạo nghiệp! Chỉ cần bản
thân chúng ta buông xuống, vứt bỏ muôn duyên, thật sự
làm!
Ba năm
trước, có một vị cư sĩ ở Thâm Quyến,
là một người c̣n trẻ, ba mươi mấy tuổi,
tức ông Hoàng Trung Xương, nghe trong Văng Sanh Truyện có
nói: “Niệm Phật ba năm bèn có thể văng sanh”, ông ta bế
quan coi thử ba năm có thể thành tựu hay không? Ở
trong quan pḥng hai năm mười tháng, c̣n thiếu hai tháng
nữa mới măn thời hạn, ông ta liền biết trước
lúc mất, văng sanh, cũng không sanh bệnh. Sau khi hỏa táng,
lưu lại xá-lợi, nay đang được thờ
trong một tiểu đạo tràng tại Thâm Quyến, chứng
minh cho chúng ta thấy [ba năm thành tựu] là thật, chẳng
giả! Ba năm trong quan pḥng, mỗi ngày ông ta niệm kinh Vô
Lượng Thọ một lần, ngoài ra, Phật hiệu
chẳng gián đoạn. Phương pháp tôi đă dạy ông
ta là phương pháp do pháp sư Đế Nhàn đă dạy
người đồ đệ làm
thợ vá nồi: Niệm mệt bèn nghỉ ngơi, chẳng
phân biệt ngày hay đêm. Tỉnh dậy
sẽ niệm tiếp, thật sự làm được “tâm vô nhị niệm”, chỉ
một câu A Di Đà Phật. Ông ta khác với người
thợ vá nồi ở chỗ mỗi ngày niệm kinh Vô
Lượng Thọ một lần, thêm vào một bộ kinh
Vô Lượng Thọ, nhưng Phật hiệu chẳng
gián đoạn, bèn thành công. Văng sanh khó hay không? Chẳng
khó! Vấn đề là quư vị có chịu buông xuống
hay không, mấu chốt ở chỗ này! Vứt bỏ vạn
duyên là câu mấu chốt, chỉ cần làm được
câu này là được rồi!
V́ thế,
ở đây, bằng sáu câu, mỗi câu gồm bốn chữ,
giới thiệu tâm thái và sự từng trải trong hội
tập của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư. Sau khi kinh này
được hoàn thành, bản [sửa chữa lần] thứ
mười là bản hoàn thành, “thủ
mông Tông Giáo câu triệt chi Huệ Minh lăo pháp sư thủ
tŕ hội bổn nhiếp ảnh ư Phật tiền, vị
tác chứng minh” (trước hết, được lăo
pháp sư Huệ Minh là một vị thông triệt Tông lẫn
Giáo, cầm bản hội tập chụp ảnh trước
Phật đài để chứng minh). Lăo ḥa thượng
Huệ Minh là một vị đại đức trong Phật
môn thuở ấy. Trong bản in này không có [bức h́nh ấy];
khi tôi in [cuốn chú giải của cụ Hoàng] lần đầu,
phía trước có bức ảnh lăo pháp sư Huệ Minh tay
nâng cuốn sách này chụp h́nh trước Phật đài để
chứng minh. Bức h́nh này rất dễ t́m, chúng tôi in ra với
số lượng khá nhiều. “Luật
Tông đại đức Từ Châu lăo pháp sư kế chi,
chuyên giảng thử kinh ư Tế Nam, tịnh thân vi khoa
phán” (Tiếp đó, bậc đại đức trong Luật
Tông là lăo pháp sư Từ Châu chuyên giảng kinh này ở Tế
Chúng ta đọc
tiếp: “Tiên cữu phụ Mai
lăo cư sĩ” (người cậu đă khuất của
tôi là Mai lăo cư sĩ), tức lăo cư sĩ Mai Quang Hy. Mai
lăo cư sĩ là thầy của thầy Lư Bỉnh
“Gian sáp trầm hối” (khó
khăn, trúc trắc, nặng nề, tối nghĩa),
đây là nói về những chỗ trong bản dịch gốc,
“gian” (艱) là gian nan, rất khó đọc, “sáp” (澀) là khó hiểu, “trầm” (沉) là quá
sâu, “hối” (晦) cũng là không dễ ǵ hiểu rơ, trong
các bản dịch gốc có [những khuyết điểm
này]. Đây là lư do v́ sao kinh này chẳng được
lưu thông rộng răi; đó là v́ khi phiên dịch đă dùng
những văn tự như thế, quả thật cụ
Hoàng đă miêu tả khá chính xác, “gian
sáp trầm hối”. Quư vị đọc các bản dịch
gốc sẽ nhận thấy khó hiểu lắm! C̣n bản
của cụ Hạ th́ sao? “Sử
chi sảng lăng” (khiến cho trôi chảy, rơ ràng), cụ Hạ
gạt bỏ những chỗ [gian, sáp, trầm, hối] này!
Đây là “thủ, xả” (lấy
hay bỏ, tức là chọn phần nào để giữ lại
trong bản hội tập, phần nào bỏ đi), là sự
chọn lựa, cân nhắc trong khi hội tập. Phàm những
chỗ nào khó khăn, tối nghĩa, trúc trắc, cụ không
dùng, cụ chọn lấy những chỗ rất sáng sủa,
trôi chảy, khiến quư vị đọc sẽ thấy rất
thoải mái. Như trong hiện tại, chúng ta đọc bản
này, quư vị đọc thấy thoải mái lắm, không cảm
thấy kinh văn quá sâu, mà cũng chẳng khó hiểu, ư
nghĩa đều rất rơ rệt, không có chỗ nào tối
nghĩa. Điều này khó có lắm! “Phiền phức trầm mạn” (rườm rà,
trùng lặp, lan man), chúng ta gọi điều này là “cà kê, rườm
rà, trùng lặp”, v́ người Ấn Độ thích lặp
đi, lặp lại, không như người Hoa, người
Hoa chuộng đơn giản, dễ hiểu, c̣n người
ngoại quốc chuộng lặp đi, lặp lại. Lặp
đi, lặp lại cũng có lợi, v́ sao? Khiến cho quư
vị nhớ sâu hơn; do vậy, nó cũng có lợi. Người
Hoa từ xưa tới nay đ̣i hỏi “giản yếu tường minh”, tức là ngôn ngữ
văn tự đều phải tuân theo nguyên tắc sau đây:
Phải đơn giản, nêu lên được ư nghĩa
chánh yếu, cốt lơi, lại c̣n rơ ràng, vừa phải dễ
hiểu. “Giản yếu tường
minh” là vừa chi tiết, vừa rơ ràng, phải hội đủ
bốn tiêu chuẩn này. V́ thế, khi đọc những thứ
của Trung Quốc có thể đọc nhiều, chứ đọc
kinh Phật rất khó. Trong toàn bộ Đại Tạng kinh,
những chỗ “gian sáp trầm
hối, phiền phức trầm mạn” (khó hiểu, trúc
trắc, nặng nề, tối nghĩa, rườm rà, trùng
lặp, lan man) được nhắc đến ở đây
đúng là rất nhiều! Bản hội tập của cụ
Hạ “quy ư giản khiết”
([biến đổi những chỗ nặng nề ấy]
trở nên đơn giản, rơ ràng), “Lăng loạn tỷ thành chỉnh nghiêm”, tức
là cụ Hạ đă điều chỉnh, rút gọn [những
chỗ luộm thuộm, rườm rà]. “Khuyết sơ tất linh viên măn” (khiến cho những
chỗ thiếu sót được viên măn): Những chỗ
khiếm khuyết, cụ bèn sắp xếp, bổ sung ư nghĩa,
khiến cho [độc giả] đọc đến sẽ
thấy ư nghĩa viên măn. Công việc này chẳng dễ thực
hiện, lăo nhân gia làm suốt mười năm, chẳng
phải là hội tập cẩu thả, hời hợt, mà
suốt mười năm, mỗi ngày đều nghiên cứu
và tu đính.
“Tất kỳ hữu mỹ giai
bị, vô đế bất thâu... Tuy dục bất vị
chi thiện bổn, bất khả đắc dă” (Ắt
mong cho mọi điều đẹp đẽ đều được
hoàn bị, không điều chân thật nào chẳng bao gồm...
Dù chẳng muốn bảo là bản văn hoàn thiện cũng
không thể được). Đây là lời đại sĩ
Mai Quang Hy đánh giá bản hội tập này. Cụ Hạ
hội tập quá khéo, quả thật là do năm bản dịch
gốc ghép lại; quư vị thấy bản này hay lắm,
mà nay c̣n có kẻ hoài nghi, đó là ǵ? Đó là nghiệp
chướng, kẻ ấy có chướng ngại, phiền
năo, tập khí, chẳng liễu giải bi trí hoằng nguyện
của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư. Người ta đến
thế gian này để làm ǵ? Đến để thị
hiện: Tốn thời gian suốt mười năm nơi
bộ kinh này, để làm chuyện [hội tập] này, đến
để thị hiện. Cụ biết pháp môn này, bộ
kinh này, trong thời gian dài đến chín ngàn năm sau như
thế, sẽ khiến cho vô số chúng sanh do pháp môn này mà đắc
độ. Đây là bản kinh tiêu chuẩn. Cụ v́ chúng
ta làm chuyện này, khó có ngần ấy, hy hữu dường
ấy, chúng ta đă biết th́ phải tri ân. Có tri ân, quư vị
mới biết báo ân. Chúng ta dùng ǵ để báo ân? Y giáo phụng
hành, trong một đời này, quyết định văng sanh
Tịnh Độ, đến thế giới Cực Lạc
gặp cụ Hạ Liên Cư, đó là báo ân cụ đă tiếp
dẫn chúng ta.
“Ư thị, tiên sư hội bổn
vấn thế dĩ lai, bất hĩnh nhi tẩu” (do vậy,
từ khi bản hội tập của tiên sư ra đời,
không chân mà đi khắp chốn), “hĩnh” (脛) là bắp
chân (phần từ đầu gối xuống đến bàn
chân). Không có chân mà đi được, có nghĩa là được
truyền bá rất nhanh. Thật ra, cũng chẳng phải
là chuyện đơn giản như thế. Hoàng lăo cư
sĩ bảo tôi: “Thầy tôi là cụ Hạ Liên Cư bảo
trong tương lai, bản hội tập này sẽ từ hải
ngoại truyền vào trong nước”. Trong lúc đó, mọi
người bọn họ đều cảm thấy chẳng
biết nói sao, làm sao có thể như thế được?
Sau này gặp tôi, thật sự là từ hải ngoại truyền
vào trong nước! Chúng tôi là người đầu tiên hoằng
dương tại hải ngoại, chỉ có hai ba bản đưa
về Đài Loan. Thầy tôi là lăo cư sĩ Lư Bỉnh
Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 3
hết
[1] Một mẫu (畝) Trung Hoa bằng
666.67 mét vuông.
[2] “Cấp sáu”
nói ở đây chính là dựa theo cách đánh giá theo tiêu chuẩn
Richter. Quy định này được Charles Francis Richter
và Beto Gutenberg đưa ra vào năm 1935 nhằm đánh giá mức
độ chấn động của các trận động
đất. Tuy báo chí vẫn viết là “một trận
động đất mấy độ Richter”, nhưng thật
ra thang đo hiện thời được sử dụng
là MMS (moment magnitude scale, thường dịch
là Cự Chấn Cấp) căn cứ trên mức năng
lượng do một trận địa chấn phóng thích.
Nói chung, một trận động đất cấp sáu sẽ
phóng thích một năng lượng bằng 15 kilotons, có sức
tiêu hủy trong ṿng bán kính 160 km. Cấp tám là rất mạnh,
có thể tàn phá hàng trăm km.
[3] San đính (刪訂): Nói gọn của
“san cải, tu đính” tức
là gạt bỏ những chỗ rườm rà, trùng lặp,
sửa những chữ bị chép lầm. San đính khác với
“san định” (刪定). Khổng Tử san định
Ngũ Kinh của Nho gia chính là hệ thống hóa, gạt bỏ
thẳng thừng những phần được coi là
không đúng với tư tưởng Nho gia, đồng thời
sắp đặt, chỉnh lư, thay đổi kết cấu
của cả một bộ kinh; trong khi san đính chỉ
nhằm mục đích làm cho một văn bản trở
nên mạch lạc, rơ ràng, sửa những chữ sai, lược
bỏ những đoạn văn trùng lặp thường
thấy trong tiếng Phạn, hay những phần khó hiểu,
rườm rà, không ảnh hưởng đến ư
nghĩa chánh yếu của cả bản kinh.
[4] Long Tạng là tên gọi tắt của
Càn Long Đại Tạng Kinh, c̣n gọi là Càn Long Tạng,
hoặc Thanh Tạng, là Đại Tạng Kinh được
triều đ́nh Thanh chủ tŕ khắc in. Công tŕnh này
được khởi xướng từ năm Ung Chánh 11
(1733), do Ḥa Thạc Thân Vương Doăn Lộc chủ tŕ,
Ḥa Thạc Thân Vương Hoằng Trú và Trụ Tŕ chùa Hiền
Lương Siêu Thánh phụ tá. Chính thức tiến hành khắc in vào năm Ung Chánh 13 (1735) đến
năm Càn Long thứ ba (1738) mới hoàn thành, gồm 79.036 tấm
ván in, chia thành 724 ḥm, dùng những chữ trong bài Thiên Tự
Văn để đánh số thứ tự (tập một
là Thiên, tập hai là Địa, tập ba là Huyền v.v...)
gồm 1.669 bộ kinh sách, 7.168 quyển, tŕnh bày giống
như bộ Vĩnh Lạc Bắc Tạng (Đại Tạng
Kinh đời Minh).
Đại Chánh Tạng gọi đủ
là Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō Shinshū Daizōkyō), tức là
Đại Tạng Kinh Nhật Bản được đề
xướng từ năm Đại Chánh 13 (1922). Đại
Chánh (Taishō) là niên hiệu của hoàng
đế Yoshihito (Gia Nhân thiên hoàng, tức ông nội của
Nhật Hoàng Akihito (Minh Nhân Thiên Hoàng) hiện thời).
Công tŕnh này do hai ông Cao Nam Thuận Thứ Lang (Takakusu Junjirō) và Độ Biên Hải
Húc (Watanabe
Umiakira) biên tập, nhóm các ông Tiểu Dă Huyền
Diệu (Ono Genmyo) v.v... giảo chánh, ấn hành
năm 1934. Sách được chia thành 100 tập, chia thành
Chánh Tạng 55 tập, Tục Tạng 33 tập, Biệt
Quyển 15 tập (gồm Đồ Họa, Chiêu Ḥa Pháp Bảo
Tổng Mục Lục v.v..)
[5] Khuê (圭) c̣n gọi là ngọc khuê, vốn là một
vật dụng tượng trưng cho quyền lực vào
thời cổ, thường làm bằng ngọc quư, nhất
là loại ngọc trắng, tạc thành h́nh thuôn dài, dẹp,
trên đầu khắc thành h́nh tam giác, phía dưới cắt
thẳng. Quư tộc thường cầm ngọc khuê khi vào
chầu vua, dự tiệc, cúng tế, hoặc trong tang lễ.
Tùy theo địa vị mà kích thước, chất liệu
được quy định chặt chẽ, loại quư
nhất là bạch khuê, nên về sau chữ “bạch khuê”
được dùng với ư nghĩa “trân quư”.
[6] Ngụy Nguyên (1794-1857) vốn có tên là Ngụy
Viễn Đạt, sau đổi thành Ngụy Nguyên, tên tự
là Mặc Thâm, hoặc Mặc Sanh, hiệu Lương Đồ,
pháp danh là Thừa Quán, người huyện Thiệu
Dương, tỉnh Hồ Nam, là bạn thân của Lâm Tắc
Từ. Ông ta được coi là một nhà tư tưởng
lỗi lạc cuối đời Thanh. Khi ông ta thi Cử
Nhân, bài thi đă được vua Đạo Quang rất
tán thưởng, nhưng khi vào thi Hội liền bị rớt.
Chủ khảo Lưu Phùng Lộc rất nuối tiếc.
Măi cho đến năm Đạo Quang 25 (1845), ông ta mới
đỗ Tiến Sĩ, đỗ hạng ba mươi
chín, làm quan tới chức Tri Châu. Tuổi già, chuyên tâm nghiên
cứu Phật giáo, ẩn cư tại Hàng Châu. Ngoài bản
hội tập kinh Vô Lượng Thọ ra, ông c̣n có những
tác phẩm biên khảo nổi tiếng như Hải Quốc
Đồ Chí, Thánh Vũ Kư, Hoàng Triều Kinh Thế Văn
Biên. Những trước tác khác của ông được
môn sinh biên tập thành Ngụy Nguyên Toàn Tập.
[7] Sau Hàm Phong chỉ c̣n ba đời vua là
Đồng Trị, Quang Tự và Phổ Nghi, nhà Thanh bị
lật đổ dưới thời vua Phổ Nghi. V́ thế,
sống vào thời Hàm Phong là sống vào những năm cuối
cùng của nhà Thanh nên mới nói là “văn Thanh”.
[8] “Chưởng quản thiên bàn” là nắm
quyền cai quản thiên đ́nh, giáng phước phạt tội,
quyết định ai sẽ được cứu.
Đây là một quan điểm rất phổ biến của
các tà phái, chẳng hạn tà giáo Nhất Quán Đạo của
Trung Hoa bịa chuyện lịch sử con người
được chia làm ba thời kỳ: Thanh Dương, Hồng
Dương và Bạch Dương. Trong mỗi thời kỳ,
Minh Minh Lăo Mẫu (Thượng Đế) sẽ cử một
người xét đoán tội phước của nhân gian,
giáng tai họa, khuyến thiện, cứu vớt những
người nào thật sự tin theo Nhất Quán Đạo.
Vị đó được gọi là Chưởng Quản
Thiên Bàn, cụ thể là ba vị chưởng quản Thiên
Bàn cho ba thời kỳ theo thứ tự là Nhiên Đăng
Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật và Di Lặc Phật. Theo họ,
thế giới đang thuộc vào thời kỳ Bạch
Dương và Di Lặc Bồ Tát đă giáng thế, chưởng
quản thiên bàn. Quan điểm này cũng có thể thấy
rất rơ trong các tà phái Minh Lư, Long Hoa Trai Hội, Minh Sư
Đạo v.v...
[9] Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh
Kinh do ngài Trúc Pháp Hộ người xứ Nhục Chi dịch
vào đời Tây Tấn, một quyển. Theo kinh này, trong
tương lai, cơi đất đẹp đẽ, bằng
phẳng, sản vật dồi dào, tại đại thành
Sí Đầu, lúc ấy pháp vương Thương Khư
xuất hiện, dùng chánh pháp giáo hóa dân chúng. Vua có một vị
đại thần tên Tu Đạt Ma, vợ là Phạm Ma
Việt, đoan chánh, xinh đẹp như vợ Thiên Đế.
Di Lặc Bồ Tát bèn giáng sanh làm con họ, thị hiện
thành Phật dưới cội Long Hoa, ba lượt chuyển
pháp luân.